TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Wednesday 16 May 2012

***BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN (PHTQ SỐ 19)

TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
 


Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn còn có các danh hiệu: Bồ Tát Chuẩn Đề, Bồ Tát Quán Thế Âm hay Bồ Tát Quán Tự Tại . Qua hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn chúng ta cũng có thể thấy được ý nghĩa Công Đức và Phước Đức của Bồ Tát Hạnh. Với tư tưởng giải thoát rốt ráo tuyệt đối của đạo Phật, nhận thức tâm lý con người ở thế gian thân, miệng, ý là nguyên nhân tạo những nghiệp thiện hay ác qua nhiều kiếp luân hồi, chỉ có tu hạnh bồ tát mới chuyển đổi được nhân quả.

Cho nên những tôn tượng bồ tát vẫn luôn luôn là đề tài thu hút một cách mãnh liệt các tín đồ Phật giáo. Hiểu theo chánh kiến một cách sáng suốt, thì tín ngưỡng dân gian chỉ nhằm mục đích giác ngộ thật tánh chân như bình dị tự nhiên và cốt tủy đạo Phật dạy: “Tu tâm chuyển ý hành bồ tát đạo”.

Trên mạng lưới Internet, nhiều người phổ biến rộng rãi một đoạn phim ngắn vũ khúc ngàn tay ngàn mắt, do các nghệ nhân câm điếc biểu diễn rất công phu điêu luyện. Hình ảnh đẹp của những nghệ nhân khuyết tật, múa theo mẫu pho tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn, một biểu tượng tuyệt vời về tư tưởng Từ Bi và Trí Tuệ của đạo Phật.
Ngoài những đường nét tinh tế điêu luyện, họ thể hiện tuyệt đỉnh của nghệ thuật Đông Nam Á, bằng con tim (tâm) và khối óc (ý), vì họ hoàn toàn không nghe được âm thanh của tiếng nhạc. Tuy họ bất hạnh, nhưng khi biểu diễn, gương mặt các nghệ nhân khuyết tật nầy toát ra sự bình an từ nội tâm trong ánh hào quang của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn. 


TRÍ TUỆ (CÔNG ĐỨC) CỦA
 BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHẢN

Trong những khóa lễ thường có phẩm trì chú Đại Bi: “Thiên Thủ Thiên Nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni…” là sự truyền đạt cho người tụng đọc cảm nhận đại trí lực, đại từ bi, vô quái ngại của vị Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt.
Các Bậc tu hành giác ngộ trong dân gian ngày xưa có lẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm bất khả tư nghì nầy, khó nói hết được, nên các Ngài tạo tôn tượng bồ tát từ những tảng đá trong thiên nhiên. Đó là những phương pháp giáo hóa chúng sanh không bằng lời, mà bằng “Tâm”, thật sự bản chất của tảng đá không có sự linh thiêng nào cả.

Hình ảnh tôn tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn mỗi bàn tay đều có con mắt trí tuệ, trong tay cầm nhiều pháp khí dùng hàng phục ma chướng, những cánh tay cầm kiếm, búa, tràng hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe pháp, bình tịnh thủy, chày kim cang.. cũng tượng trưng cho mọi ngành nghề trong cuộc sống trên thế gian này.
Ý nghĩa tượng trưng vị bồ tát có đầy đủ năng lực khắc chế sự trói buộc của mọi cảnh trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), không khuất phục mọi quyền lực ngoại đạo tà giáo, tuyệt đối bình đẳng trong khi cứu độ chúng sanh, biểu trưng công đức và phước đức siêu việt. Mọi người sanh ra đều có sáu cơ quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Kinh sách gọi là lục căn.

Khi sống trên đời, con người tiếp xúc hàng ngày với cảnh trần. Mắt thấy sắc (các vật có hình tướng). Tai nghe tiếng (âm thinh, lời nói). Mũi ngửi mùi hương. Lưỡi nếm vị. Thân xúc chạm. Ý nghĩ duyên theo pháp trần. Kinh sách gọi chung sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháplục trần.

Trong cuộc sống hàng ngày, khi tiếp xúc với trần cảnh như vậy, tâm con người hay phê phán: đẹp hay xấu (mắt), dễ nghe hay khó nghe (tai), dễ ngửi hay khó ngửi (mũi), ngon hay dở (lưỡi), mịn màng hay thô nhám (thân), thương hay ghét (ý). Những sự phê phán trong tâm thức như vậy, kinh sách gọi chung là lục thức.

Người đời thường do lục căn dính mắc với lục trần sanh ra lục thức, và bắt đầu tạo nghiệp, thường là nghiệp chẳng lành. Người tu muốn phát sanh trí tuệ phải nhận rõ nguyên nhân bị cuốn vào sanh tử luân hồi là do sự dính mắc.

- Nếu mắt thấy sắc, tâm không phê phán đẹp xấu, khỏi bị trói buộc.

- Nếu tai nghe tiếng, tâm không phê phán, khỏi bị não phiền.

- Nếu mũi ngửi mùi, tâm không phê phán, khỏi bị bực mình.

- Nếu lưỡi nếm vị, tâm không phê phán, khỏi tạo nghiệp chướng.

- Nếu thân xúc chạm, tâm không phê phán, khỏi bị tham đắm.

- Nếu ý nhớ tưởng, tâm không phê phán, khỏi khởi sân hận, hay luyến tiếc, nhớ thương.

Tâm không phê phán nghĩa là không dính mắc, không nhiều chuyện, không chạy theo sự suy nghĩ sanh diệt, chứ không phải không nhận thức rõ đẹp xấu, đúng sai, ngon dở.

Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: 
"Tâm và cảnh không dính nhau là giải thoát".

Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời, nếu tâm không dính mắc, không tham đắm, thì không phiền não.  Không phiền não tức là giải thoát. 

Hành Bồ Tát đạo là con đường nhập thế của người tu, 84 ngàn pháp môn diệt trừ phiền não tự thân và muôn ngàn phương cách đưa giáo lý đạo Phật giúp người cùng tu giải thoát. Con người trải qua trăm ngàn kiếp tái sanh luân hồi trong thập loại chúng sinh, tâm còn nhiều chánh tà lẫn lộn, tốt có, xấu cũng có.

Khi được thân người, thiện duyên kỳ ngộ với Phật Pháp, con người phát tâm tu muốn trở về Thật tánh chân như của mình, trước hết phải tẩy trừ nghiệp chướng sâu dầy nơi thân khẩu ý. Kinh sách dạy 84 ngàn pháp môn trừ sạch phiền não ma, phiền não chướng, chính là ngàn tay cầm pháp khí trừ ma, ngàn mắt trí tuệ sáng suốt xóa trừ vô minh.

Con đường cứu cánh của Bồ Tát là sự kiên định, ý chí bền vững để giác ngộ được khổ, không, vô ngã, vô thường trong Thật tánh của mỗi người. Để đạt được tâm thiền định và ý chí bền vững, cần áp dụng pháp tu quán Tứ Niệm Xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.

Niệm thân: Quán thân bất tịnh. Biết rõ thân là bất tịnh, nhiều phiền lụy, không trau chuốt theo nhu cầu đòi hỏi của thân, tu thân đoan chính trang nghiêm, đơn giản.

Niệm thọ: Quán thọ thị khổ. Thọ nhận nhiều thì khổ nhiều. Không thọ vui buồn sướng khổ, không tham đắm quyền lợi vật chất, biết tri túc sống thanh bần, đạt được an lạc trong đời sống.

Niệm tâm: Quán tâm vô thường. Tâm con người nay thương mai ghét, nay tốt mai xấu. Hoặc ngược lại. Do đó, khi có hạnh phúc không vui quá, khi gặp khổ nạn không than trách. Không tự tôn, chẳng tự ti, thì tâm tự tại.

Niệm pháp:  Quán pháp vô ngã. Mọi sự việc xảy ra trên đời đều do nhiều nguyên nhân, nguyên do, xa và gần, không có một nguyên nhân đơn độc gây ra sự việc, nên gọi là vô ngã. Thấy được, hiểu được như vậy, tâm không còn phiền não.

Chúng sanh lăn lộn đầu thai trong lục đạo sanh tử luân hồi do nhiều căn bịnh từ vô minh ngàn kiếp, gồm: tham ái, dục vọng, chấp thủ, đoạn kiến, thường kiến, ngã mạn. Sự chân thật của Thật Tánh là người tu theo con đường Đức Phật dạy, đạt được tâm thanh tịnh, đầy đủ trí tuệ, có thể chuyển phàm phu trở thành thánh nhân hay bồ tát. 

Đức Phật Thích Ca chứng đắc tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh. Mắt trí tuệ của Ngài thấy được tam thiên đại thiên thế giới, thấy nhân quả trong nhiều đời nhiều kiếp, phá vô minh phiền não chấp ngã chấp pháp không còn sanh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi. Lục đạo là sáu cảnh giới luân hồi mà con người phải đầu thai chuyển kiếp, nếu chưa sạch hết nghiệp chướng, gồm: Thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.

Cõi Thiên: Sanh về cõi thiên, nơi cực lạc thế gian, hưởng phước báo thiện căn nhiều đời, được giàu sang, đủ ăn đủ mặc, có người hầu hạ, nhà cao cửa rộng, an lạc hạnh phúc. 
Cõi Nhơn: Sanh vào cõi người, giàu có nghèo có, ưa thích làm việc phước thiện, cũng có khi tạo nghiệp bất thiện, hưởng phước báo và cũng chịu quả báo đau khổ, sanh, lão, bịnh tử.
Cõi A Tu La: Sanh vào nhà quyền quí, hưởng phước tốt của gia đình, có danh tiếng, có tiền của, tánh tình nóng nảy và kiêu mạn, thích bạo động, có trí thức đời và thông minh, không khéo dễ tạo nghiệp ác.
Cõi Địa Ngục: Sanh vào cõi đau khổ, vì nghiệp ác hại người sâu nặng, bị hành hạ tra tấn ngày đêm, sống không được chết không xong, đau khổ vô cùng. 
Cõi Ngạ Quỉ: Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, thường bị hãm hại, không chỗ dung thân, luôn đói khát, không có sức tự kiếm ăn, sống nhờ vào lòng tốt của mọi người.
Cõi Súc Sanh: Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát quá nặng mà đọa vào cõi nầy, lúc nào cũng sợ bị giết, sống nơi ẩm thấp rừng sâu nước độc, mang lông đội sừng suốt kiếp.

Phật dạy: Rời xa kiến chấp, an lạc niết bàn, hàng phục ma chướng, chứng đắc trí tuệ sáng suốt, thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt khỏi giả danh, không còn chỗ thọ của bản ngã, không bị ràng buộc các pháp ác của tà ma ngoại đạo. Đó là chỗ nhận biết của người trí tuệ và là chỗ cư trú các bậc thánh, các bồ tát, các bậc giác ngộ.

(Kinh Duy Ma Cật)

TỪ BI (PHƯỚC ĐỨC) CỦA

BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHẢN

Xuất gia hay tại gia được các vị Tôn túc hay Sư phụ thường khuyến khích thọ bồ tát giới, vì đó là gieo căn lành cho người tu chuyển hóa phàm phu thành bồ tát. Nghĩa là nhiều đời nhiều kiếp, bằng trí tuệ sáng suốt, hạnh nguyện một vị Bồ Tát trong dân gian có thể cứu khổ cùng một lúc hàng trăm, hàng ngàn người, hoặc nhiều hơn nữa, mà không làm tổn hại bản thân hay một ai khác.

 Những Bồ Tát  sống trong nhân gian có rất nhiều hình tướng, tùy cơ nghi xiển dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh, diệt ác sanh thiện, cứu khổ ban vui.

Với tâm Bồ Tát con người có thể khuyên nhủ vấn đề nan giải trong gia đình, bức xúc trong tình cảm, nỗi tuyệt vọng bị áp bức, bất công, xung đột, tranh chấp. Thiền môn cũng là nơi người Phật tử trở về nương tựa, tịnh tu, gởi gắm niềm tin hy vọng và tìm được những phương pháp xoa dịu nỗi đau tâm linh, giải quyết đau khổ mà họ đang gánh chịu.

Uy đức thiện lành từ các vị chân tu thật học, phước trí trang nghiêm có biện tài thuyết phục nhân vật quyền thế, kêu gọi hòa bình, hòa giải chiến tranh. Đó là trí lực nhiệm mầu của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong nhân gian, đã cứu được hàng ngàn, hàng vạn sanh linh trong biển lửa đao binh. Tâm nguyện của người tu hành:

Thượng cầu Phật đạo,
hạ hóa chúng sanh.
Trên cầu giác ngộ,
dưới cứu dân gian.

Có rất nhiều người trên thế gian phát tâm từ thiện, vô úy thí, bố thí ngoại tài, nội tài vô điều kiện cho những mãnh đời bất hạnh, nghèo khổ, thiên tai, bịnh tật, phiền não sầu bi, gia đình tan vỡ.

Khi mới bắt đầu chỉ có một tấm lòng với hai tay đơn độc, cùng đôi mắt từ bi biểu lộ tình thương và cảm thông. Nhưng lòng từ bi của họ lâu dần lan rộng, cảm ứng tâm từ thiện đến những người xung quanh, thêm người, góp thêm một bàn tay, ngàn người tạo thành ngàn cánh tay, với tinh thần vô ngã vị tha tuyệt đối không danh không lợi.

Đó chính là những vị Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong nhân gian ở khắp mọi nơi.

Tóm lại, sức mạnh thiện căn của Phật Tâm Phật Tánh con người ở thế gian rất thâm sâu khó nói hết được. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tùng địa dũng xuất, Đức Phật ca ngợi đức độ và tin tưởng tuyệt đối, sự việc người phàm xuất thân cõi ta bà chuyển pháp luân, đầy đủ bi trí dũng, hành Bồ Tát đạo, tự tu, tự độ. Khi một người tu học Phật hiểu và hành trì giới, được định lực, có trí tuệ và từ bi, tinh thần rất mạnh mẽ cao thượng vô cùng, họ làm được những chuyện kỳ diệu nhiệm mầu không thể nghĩ bàn.

Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong dân gian xả thân cứu độ mọi loài, hành đạo giúp đời có thật không phải là hoang tưởng và Bồ Tát cũng là tâm Phật, là “Thật Tánh” của những con người biết tu tâm dưỡng tánh, rốt ráo đoạn trừ ma chướng tự thân.

Đạo Phật không dựa vào cầu khẩn, mê tín, trông chờ sự cứu độ của Bồ Tát bên ngoài, mà dạy phải tự chuyển đổi nghiệp xấu nơi tâm, tự cứu và phát tâm thành bồ tát muốn cứu độ những người hữu duyên sống xung quanh.

Người có tâm bất thiện nhìn thấy oai lực hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên nhãn cảm giác sợ hãi kinh hoàng, tưởng tượng phép lạ, mơ ước kỳ nhân, chỉ biết cầu khẩn van lạy xin thật nhiều thứ. Một khi con người phước đức thiện tâm có tu, thì có cảm ứng sự dịu mát kính ngưỡng khó nghĩ bàn, tự phát nguyện tu giới hạnh và hành trì theo đức độ Bồ Tát.
Tôn tượng các vị Bồ Tát thường được ngầm ý biểu trưng thuộc về tâm thức, muốn tán thán đức hạnh cao thượng của những người tu xuất thế gian có đủ
Từ Bi và Trí Tuệ.

Đó là tất cả ý nghĩa thâm sâu của Vi Diệu Pháp cần suy ngẫm thấu đáo. [ ]
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
 TKN.Thích Nữ Chân Liễu





TỰ TÁNH TAM BẢO - VIÊN NGỌC MINH CHÂU

TKN Thích Nữ Chân Liễu
5.10.2011

Các vị Tổ khi xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng hơn, các Ngài thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các pháp tu, để khuyên dạy và giáo hóa chúng sanh. Người thế gian nếu chấp những hình tượng Bồ Tát đều là linh tượng, thánh tượng theo thần quyền, có thể ban phước giáng họa, cầu nguyện van xin, thì không lợi ích gì cho con đường tu tập bản thân. Chẳng những vậy, điều cố chấp này còn làm cho con người yếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm tâm ích kỷ, ham muốn lợi riêng cho bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con người sống cuộc đời với tâm tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổ triền miên.

Khi vô thường đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng trước cửa tử, lúc bấy giờ tâm con người bất an, đau đớn, hoảng loạn, kêu cứu, giờ phút đó không biết rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục hay thiên đàng, Phật ở đâu, Bồ Tát ở đâu, sao không thấy? Làm sao giữ được bình tĩnh để ra đi an lành trong giờ phút đó? Câu hỏi này chúng ta cần phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ, trong lúc thần thức còn sáng suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới là sự cần thiết quan trọng bậc nhất.



Trong các chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượng trang nghiêm được an trí bên cạnh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, hình tướng một vị tăng xuất thế, tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng viên ngọc minh châu tỏa sáng. Đó là hình ảnh tôn tượng đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ, bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài phát đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Tâm nguyện Bồ Tát không muốn an hưởng Niết Bàn khi thấy chúng sanh còn quá nhiều đau khổ.

Địa: sâu dầy, chắc cứng, kiên cố, sâu kín, tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn định, không đo lường.

Trong đạo Phật, Địa Tạng hàm ý đại địa bao la, tượng trưng cho tạng thức và căn tánh con người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, có chân thật, có giả dối. Tâm con người có địa ngục và tâm con người cũng có niết bàn.


HÌNH TƯỚNG TRANG NGHIÊM VỊ TĂNG XUẤT THẾ
(TỰ TÁNH TĂNG BẢO - THANH TỊNH)

Tinh thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởng vị tha của một vị hình tướng xuất gia, luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh đang chịu khổ cảnh địa ngục kinh hoàng bởi vô minh. Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ ái, lòng đại từ đại bi cao cả, là tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh, tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một trong ba ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng bảo là người tu xuất gia, là kho chứa châu báu diệu pháp, mồi ngọn đuốc từ bi trí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho chúng sinh, mở sáng trí tuệ cho người tu học Phật.

Mặc dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường vượt qua rừng u minh tăm tối. Tâm từ bi độ lượng bao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh phúc  an vui cho cuộc đời. Những lời thuyết pháp của Tăng bảo có sức mãnh liệt phá tan những vọng tâm, vọng tưởng sâu kín tận trong tâm thức của những người đang mê ngủ với thú vui tạm bợ, làm cho họ thức tỉnh.

Thân đắp cà sa có ý nghĩa kham nhẫn, sống đời phạm hạnh thanh tịnh và còn là sức mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. Chiếc áo cà sa che chở cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham vọng, sân hận và si mê. Người xuất thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát triển các thiện pháp, tự giải thoát cho bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát vì người, không phải chuyện dễ dàng ai cũng làm được.

Trong 37 phẩm trợ đạo dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ Căn (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực” gồm có:

1. Tín Lực:    Sức mạnh của sự tin tưởng vào chánh pháp không thối chuyển.
2. Tấn Lực: Sức mạnh của sự tinh tấn, quyết tâm thành tựu phạm hạnh trên     
                        đường tu.
3. Niệm Lực:Sức mạnh của tâm niệm, luôn ghi nhớ xa rời điều ác, giữ giới
                        trong sạch.
4. Định Lực: Sức mạnh của sự quán sát tâm và tập trung vào thiền định, an
nhiên tự tại.
5. Tuệ Lực: Sức mạnh của sự sáng suốt, trí tuệ mạnh mẽ đi đến bờ giác ngộ.          

Tu là ở nơi nội tâm có chánh tín sáng suốt và tư duy thanh tịnh, không phải ở hình tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng tâm xuất gia đều có thể thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyện Bồ Tát như người xuất gia đắp y giải thoát vậy.

Tu là noi theo hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địa con người có nghiệp lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có niết bàn và có tự tâm tự tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự tu, tự giác ngộ giải thoát cho chính bản thân và mọi người hữu duyên, như hạnh nguyện của người xuất gia đắp y giải thoát vậy.
Người biết cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổi tâm địa của chính bản thân, đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi nữa, tức là địa ngục đã trống không, lúc đó được giải thoát.

Đó chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh, mà ai ai cũng có.

TÍCH TRƯỢNG PHÁ CỬA ĐỊA NGỤC: CHÁNH PHÁP
(TỰ TÁNH PHÁP BẢO - CHÂN CHÁNH)

Địa ngục không nhất  thiết khi con người chết đi mới thấy, địa ngục ở ngay cõi đời ngũ trược ác thế. Địa ngục sanh ly tử biệt, địa ngục tù giam cấm cố tra tấn, địa ngục bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là quá nhiều địa ngục ngay trước mắt, con người phải chịu đền trả quả báo gây tạo ra nhiều đời nhiều kiếp trong lục đạo luân hồi.

Bồ Tát Địa Tạng tay cầm Tích Trượng biểu dương sức mạnh của Chánh Pháp. Năng lực của Tích Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ Tát, dùng chánh pháp chuyển hóa tâm địa con người đầy tham lam, hận thù, đố kỵ, si mê mù quáng có thể thức tỉnh kịp thời. Như những cánh hoa sen nở thơm tho thanh khiết, kết tụ của sự giác ngộ giải thoát, hoa sen đều từ gốc bùn tanh. Mục đích của người tu là phải có chánh pháp, hiểu tận tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời Phật dạy. Chánh pháp chính là hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng đập tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngục phiền não đau khổ.

Xuất gia hay tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”, trang nghiêm thân tướng với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, để đạt tự tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát sanh trí tuệ, phá vỡ cửa địa ngục vô minh nhiều kiếp luân hồi, tâm luôn hướng về Bồ Tát hạnh để cứu khổ chúng sinh. Người tu theo con đường chân chính của Đức Phật chỉ dạy, sống trong chánh pháp được an lạc hạnh phúc. Dù chưa thành Phật, chưa an hưởng niết bàn, nhưng ở mọi cảnh giới đều có thể tự độ và độ tha như hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng. Còn sống trên đời, còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào việc tu học, tự quán sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì Phật dạy thân người khó được và được thân người là dễ tu nhất.

Trên đường tu học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gai thử thách. Nào trùng độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tiền của, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng rong chơi, ai nói gì cũng tin, ai bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ tà pháp đó dẫn dắt con người lạc vào con đường tà đạo đầy bóng tối tội lỗi. Chánh pháp là cứu cánh tận diệt tội lỗi, dứt trừ thói quen tạo nghiệp đua đòi và nhiều tật xấu tiềm ẩn trong kho tàng tâm thức con người. Khi hiểu tận tường giáo pháp trong kinh điển, thực hành và suy ngẫm thấu đáo lời Phật dạy, chuyển hóa tâm địa si mê sâu nặng trong tàng thức và tâm ích kỷ mù quáng, con người thức tỉnh kịp thời, đó là giải thoát.

Đức Phật dạy: "Phải luôn luôn quán chiếu nội tâm, thúc liễm vọng tâm vọng thức để tự giác ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi nghiệp lực. Tâm là địa ngục, tâm cũng là niết bàn. Con người phải hứng chịu mọi quả báo an lạc hay đau khổ do chính mình tạo ra. Chính tự thân mới có đủ năng lực đưa mình ra khỏi địa ngục đau khổ mà thôi".

Địa Tạng là tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh biết tàm quí, sám hối tội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổi tâm niệm xấu ác thành thiện lành chính là con đường giải thoát ra khỏi luân hồi, tam đồ ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý như vậy thì rất có lợi lạc cho việc tu nhân, tích phước, kiệm đức, cứu người giúp đời. Người đời có thể che giấu được tâm tốt hay xấu với người xung quanh, nhưng không gạt được tâm địa của chính mình.

Nhận ra được chân lý sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương tiện thanh lọc những tư tưởng ô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều kiếp. Thực hành lời Phật dạy, suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự thân, vững bước tu tập cho đến khi đạt được Tự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh, thân tâm được tự tại giải thoát khỏi cảnh giới địa ngục.

VIÊN NGỌC MINH CHÂU - TRÍ TUỆ
(TỰ TÁNH PHẬT BẢO - SÁNG SUỐT)

Bồ Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật thể vô cùng quí giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong bóng tối vô minh. Hình tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những tia hào quang, chiếu sáng xung quanh đầu hay toàn thân, chính là nghĩa đó.

Theo kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự sáng suốt thanh tịnh của những bậc giác ngộ siêu phàm, các vị chứng chánh đẳng chánh giác mới có được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo được người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường, cứu giúp con người vượt qua rừng u minh tăm tối. Con người nhờ được chỉ  dẫn, cố gắng tìm cho ra viên ngọc Minh Châu tượng trưng cho trí tuệ sáng ngời của tự tâm.

Viên ngọc Minh Châu tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt bất sanh bất diệt của con người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâm tự lực con người thanh tịnh mà được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện.

Viên ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thức giác ngộ của Phật tánh có công năng chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên tất cả sự thấy biết của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi luân hồi nhiều đời nhiều kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá của tự thân, cứ lo mãi tìm Phật, cầu Bồ Tát bên ngoài.

Người có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thần tự giác, sống không chọn ăn ngon mặc sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, hiểu rõ vô thường, thân này trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những đòi hỏi của con người biết tùy theo khả năng và chỉ là phương tiện cần thiết, biết đủ cho cuộc sống, thì đạt được sự tự do và giải thoát khỏi sự trói buộc ngục tù của lòng tham sân si.

“Phật Bảo” là một trong ba ngôi báu của Tự Tánh Tam Bảo sáng suốt nhất, là kho chứa đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh thần của đạo Phật không chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượng linh thiêng huyền bí hay cầu nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ. Người tu theo Phật phải có ý chí cương quyết phá tan mọi cám dỗ của danh lợi, không bị sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trói buộc, tìm cho được tự tánh “Phật Bảo” sáng suốt của tự tâm. Tâm mê là chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn.

Trong Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự Tâm Tự Tánh Tam Bảo sẵn có nơi tự thân mỗi người:
       
Bất ưng trụ sắc sanh tâm
            Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,
            Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.

Nghĩa là: Con người không chấp giữ bất cứ việc gì cho riêng mình, đừng thấy sắc sanh phân biệt thương ghét, đừng vì cao lương mỹ vị mất cảnh giác, đừng vì lợi dưỡng sung sướng sanh tâm tham đắm. Không có chỗ dính mắc thì không có địa ngục khổ đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an lành giải thoát. Tâm “vô sở trụ” là tâm bồ đề, là ngọc Minh Châu sáng ngời trí tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở cảnh giới nào cũng được an vui tự tại.
*
Tóm lại, Bồ Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng (từ bi), một tay nắm chắc viên ngọc (trí tuệ), không phải là vị thần linh, và không có khả năng phá cửa địa ngục cứu chúng sanh theo nghĩa đen, bởi vì như vậy trái với luật nhân quả và hiểu như vậy kinh Bát Nhã gọi là vọng tưởng điên đảo. Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng chánh tín đủ hai yếu tố Từ Bi và Trí Tuệ. Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của, tài sản có thể mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín không quan tâm đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp, chứ không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó, con người sẽ rơi vào trầm luân đau khổ của sanh tử không thoát ra được.

Người sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo thanh lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì minh tâm kiến tánh càng sớm đạt thành. Thấy được Phật Pháp Tăng tự tâm tức là hằng sống trong “Tự Tánh Tam Bảo”.

TỰ TÁNH PHẬT BẢO:
Viên ngọc Minh Châu quí hiếm, là trí tuệ viên mãn, là Phật tánh sáng suốt, có công năng phá trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.
TỰ TÁNH PHÁP BẢO:
Tích trượng Chánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnh từ bi chân chánh vô úy của các pháp, có công năng tự giải thoát khỏi địa ngục đau khổ của thân tâm.
TỰ TÁNH TĂNG BẢO:
Tướng xuất gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm xuất gia, hành Bồ Tát đạo, tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật học, một lòng không thối chuyển.

Khi mê mờ: Chúng con khổ - nguyện xin cứu khổ.
Khi giác ngộ: Chúng con khổ - nguyện xin tự độ. []

NAM MÔ U MINH GIÁO CHỦ BỔN TÔN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.
TKN Thích Nữ Chân Liễu
thichnuchanlieu@gmail.com


HÃY NUÔI DƯỠNG ƯỚC MƠ
TÁC GIẢ: Nguyễn Văn Trình
Sự sống nảy sinh từ cõi chết
Thất bại, người mẹ thành công
Quy luật cuộc sống sinh tồn
Dẫu chưa có những điều mơ ước

Em ơi, đừng tuyệt vọng
Phải nuôi dưỡng ước mơ
Cho dù ước mơ kia chỉ là mơ ước

Nhưng nó là ngọn nến cuối đường hầm
Thôi thúc người ta vượt qua bóng tối
Ước mơ như ngọn lửa soi đường
Đốt lên niềm tin, hy vọng tương lai

Em ơi, đừng tuyệt vọng
Cuộc sống có muôn ngàn cái đích Vươn tới
Hãy chọn cho mình một lối đi riêng
Em sẽ thấy, cuộc sống này đáng yêu biết mấy

Trời trên đầu vẫn xanh
Đất dưới chân vẫn bình yên, nồng ấm
Và mỗi sớm mai, chim vẫn hót đầu cành
Hoa vẫn nở bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

 Em ơi, đừng tuyệt vọng
Em ơi, đừng tuyệt vọng
Hãy nuôi dưỡng ước mơ.



 Thế nào là cuộc sống có ý nghĩa?

.1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
.2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
.3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
.4) Sống trong an lạc và hạnh phúc là cuộc sống có ý nghĩa.
.5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
.6) Sống trong giác ngộ và giải thoát là cuộc sống có ý nghĩa.

- Kính mời đọc:
.1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
Những việc gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không muốn bị người khác quấy rầy, không muốn đời tư bị bươi móc, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không thích bị ai phê bình, chỉ trích, khinh khi, phỉ báng, thì mình đừng vạch lá tìm sâu, bới bèo tìm bọ, viết thư nặc danh, hăm dọa chửi bới người ta. Phải nên biết rằng: gieo nhân nào gặt quả nấy, đong đấu nào nhận đấu nấy!

.2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
Vì áp lực của cuộc đời thường đè nặng trong tâm tư, chúng ta bị ngoại cảnh chi phối quá nhiều, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên. Lúc thịnh thì vui, lúc suy thì buồn. Lúc nhục nhã thì bực, lúc danh dự thì khoái. Lúc xưng tán thì thích, lúc phê phán thì quạu. Lúc khổ thì than, lúc hân hoan thì chịu! Nở được nụ cười nhẹ nhàng, vô ưu, trầm tĩnh, trong mọi hoàn cảnh giúp chúng ta sống cuộc đời có ý nghĩa. Nụ cười thương yêu, nụ cười có ý thức bao giờ cũng đẹp đẽ và thường giúp con người sống cuộc đời có ý nghĩa một cách mầu nhiệm khó thể nghĩ bàn.

.3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta biết mình thực sự là ai, biết mình thực sự đang làm gì, biết mình thực sự đang nói gì, biết mình thực sự đang nghĩ gì. Chúng ta thường mang cái áo đời danh lợi, cho nên quên "con người chân thật" của mình, luôn luôn sống trong ảo tưởng. "Con người chân thật" là con người luôn luôn sống trong tỉnh thức, kiểm soát được hành động, lời nói và tư tưởng, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, trình độ, xuất xứ, đời sống, dân tộc. Sống trong tỉnh thức nghĩa là phải có chánh kiến, theo chánh tư duy, giữ gìn chánh ngữ, thực hành chánh nghiệp, sống với chánh mạng, có chánh tinh tiến, luôn luôn chánh niệm, có được chánh định.

.4) Sống trong an lạc và hạnh phúc là cuộc sống có ý nghĩa.
Cuộc sống không dính mắc, không sân hận, không si mê, không phiền não, không chấp chặt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh chấp, không hơn thua, không bon chen, không đua đòi. Khi có người mang lửa đến đốt, chúng ta đừng đưa bổi ra đón, thì sẽ không bị đốt cháy. Nghĩa là nếu bị người chửi mắng, hay khi nhận được thư, dù nặc danh hay chính danh, nặng lời nhục mạ, chúng ta không nổi cơn sân, dù ngoài mặt hay trong lòng, thì chúng ta được bình yên vô sự. Chúng ta không có được những gì mình thích, thì hãy thích những gì mình có. Ðược như vậy, ngày ăn ngon tối ngủ yên, và chắc chắn chúng ta sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc.

.5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta thường luyến nhớ quá khứ, mơ tưởng tương lai. Sống trong cuộc đời hiện tại, chúng ta nên biết rằng "mình đang sống", đang hít thở không khí, đang ở trong chánh niệm, sống với thiện tâm, sống không tà niệm. Ðược như vậy, tâm của chúng ta như dòng nước trong mát, không vướng bụi trần, không vương phiền não. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
Nghĩa là chuyện quá khứ cảm giác đã qua đi, không nên nhớ nữa, chuyện hiện tại thấy đó rồi mất đó, cảm giác nào rồi cũng qua mau, không có gì tiếc nuối, chuyện tương lai chưa đến, đừng lo lắng ưu tư phiền muộn, chỉ khiến cuộc đời thêm phức tạp phiền não mà thôi!

.6) Sống trong giác ngộ và giải thoát là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, bình yên, phẳng lặng, an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải biết quán sát chân lý, nhận chân lẽ thực, thấy được thực tướng của vạn hữu. Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, thì nên biết rằng, chúng ta sinh ra đời để trả hết các nợ đã vay, đã tạo tác từ nhiều tiền kiếp, đừng tạo thêm nghiệp mới, chấm dứt sinh tử luân hồi, không si mê, không mơ tưởng, không van xin, không mong cầu. Chúng ta phải sáng suốt nhận định rõ ràng: cuộc đời khổ nhiều vui ít.

Cho nên, chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: sinh lẫn diệt, còn lẫn mất, được lẫn thua, khen lẫn chê, vui lẫn buồn. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: có làm có hưởng, có làm có chịu, sinh sự sự sinh, gieo gió gặt bão. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: nay còn mai mất, nay xấu mai tốt, nay bạn mai thù, chuyển biến không ngừng. Cần phải có thời gian tu tập thực nghiệm lâu dài, cần phải có công phu quán chiếu bền bỉ, cần phải có ý chí mạnh mẽ, nghị lực vững vàng, để chuyển hóa cuộc đời từ phiền muộn, ưu tư, lo âu, sợ hãi, trở thành hoan hỷ, vui vẻ, thanh thản, tự tại. Ðược như vậy, chúng ta sẽ giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.



NIỀM VUI ĐẦU XUÂN

HT THÍCH THANH TỪ
 



Hôm nay là Tết Nguyên Đán, năm Quí Hợi, 1983 DL, chư Tăng Ni và Phật tử đến đây chúc mừng năm mới và cầu tuổi thọ cho tôi. Vì tôi có một chút niềm vui, nên muốn nói chuyện nhiều với quí vị nhân buổi đầu xuân.



Một hôm, đang ngồi nghỉ, bỗng dưng tôi nhớ đến câu chuyện Thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mã Tổ. Khi Huệ Hải đến, Mã Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?” Huệ Hải thưa: “Con đến đây cầu Phật pháp.” Mã Tổ bảo: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?” Huệ Hải thưa: “Cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Mã Tổ nói: “Chính cái ngươi hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.” Ngay câu này, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình, vui mừng lễ tạ. 

Về sau, khi giáo hóa đồ đệ, Ngài bảo: “Từ khi ta đến Mã Tổ, nhận được kho báu nhà mình đến giờ sử dụng tự tại, không bao giờ thiếu thốn.” Khi ấy bỗng dưng tôi tự hỏi: “mình thiếu thốn cái gì”, rồi tôi cười…


Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: thí dụ Cùng tử và thí dụ Hệ châu.

Các đệ tử lớn của đức Phật, sau khi ngộ được Tri kiến Phật, mới trình lên thí dụ “Cùng tử”, để đức Phật ấn chứng. Cùng tử từ thuở nhỏ, đã bỏ cha trốn đi lang thang ở xứ người, sống chật vật nghèo khổ. Khi tuổi đã lớn, chàng tình cờ về đến cố hương. Gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quí, chàng không dám nhìn cha. Vì không nhận ra ông Trưởng giả đầy thế lực kia là cha mình, nên cùng tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông Trưởng giả phải khổ nhọc sai ngưởi đi dụ dỗ. Sau cùng chàng chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông Trưởng giả, chớ không dám tự nhận mình là con. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo, nên đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc lại, mới tuyên bố rằng: “ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi…” và trao cả sự nghiệp cho chàng. Từ đó cùng tử mới thấy mình thật là con ông Trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của cha.


Qua thí dụ trên, chúng ta nhận thấy chàng cùng tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận ông Trưởng giả là cha, nên hoảng sợ bỏ chạy. Và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng cùng tử ấy ngay khi trở về liền tự nhận mình là con thì chắc khỏi bận tâm người cha.

Đến thí dụ “Hệ châu”. Đây là hình ảnh một người cùng khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương, cột trong chéo áo của anh một hạt châu quí nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi, anh chàng say khi tỉnh dậy bèn đi lang thang xứ này xứ khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc. Một hôm, người bạn thân gặp lại anh bèn nói: “Ngày xưa tôi đã tặng anh một hạt châu quí, giá trị vô luợng, cột trong chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một cự phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến thế này.” Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh. Nhận ra hạt châu, anh chàng kia liền hết thiếu thốn, nghèo khổ.


Qua thí dụ trên chúng ta thấy chỉ cần một phen nhận lại mình có hạt châu thì hết nghèo; nếu quên mình có hạt châu thì đói khổ, nhớ mình có hạt châu thì giàu có.

Như vậy cái giàu có và nghèo khổ cách nhau bao nhiêu. Chỉ giữa tỉnh và mê. Ví như cùng tử khi gặp lại cha, nhận ngay cha mình là ông Trưởng giả, lúc ấy tuy chưa thay đổi y phục nhưng còn thấy mình là cùng tử hay không? Và anh chàng có sẵn hạt châu trong chéo áo, vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy tuy còn đội nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy mình nghèo chăng? Cái nghèo của cùng tử và của gã say, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông Trưởng gia, chỉ tại quên mình là người có hạt châu.


Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về Đại thừa đốn giáo, đốn nghĩa là nhanh. Nhớ mình là con ông Trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con Trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ bỏ nghèo thành giàu, chỉ trong tích tắc đồng hồ chuyển mê thành ngộ. Đó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Đó cũng chính là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của Thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay câu nói của Mã Tổ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi này nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách nhanh chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có, đó gọi là đốn ngộ. Còn quên gọi là mê, mê lộ là quên đường. Chỉ vì quên kho báu của chính mình nên chúng ta lang thang đi trong luân hồi sanh tử không biết bao nhiêu kiếp. Cho đến ngày nay, tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo, nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi này nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông, là tinh thần “truyền đốn pháp” trong bài kệ của Lục Tổ, cũng là tinh thần đốn ngộ của kinh điển Đại thừa.



TỪ BI VÀ BẠO LỰC

Thích Chân Tuệ
Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada

Trong thành Xá Vệ (xứ Kosala), ai cũng biết Angulimala là một kẻ sát nhân nguy hiểm. Khi nghe tin Angulimala xuất hiện trong thành phố, mọi người đều kinh sợ. 

Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng đối với Angulimala, phải huy động cả quân đội mới có thể bắt được. Dân chúng xem Angulimala như ác quỉ, không có tình thương. Tất cả dân chúng trong thành người nào cũng đồng ý là gặp Angulimala thì phải giết, phải tiêu diệt. 

Chỉ trừ có một người. Người đó nghĩ rằng trong Angulimala vẫn còn có hạt giống thiện. Người đó là đức Thế Tôn. Nhưng chưa ai có khả năng khơi dậy hạt giống đó, cho nên Angulimala chưa có cơ hội để quay đầu trở thành con người tốt. 

Angulimala đã giết rất nhiều người. Mỗi khi giết một người, anh ta cắt một ngón tay, rồi xỏ xâu đeo vào cổ. Nghe nói anh ta đã có 99 đốt xương rồi. Anh ta muốn giết thêm một người nữa cho đủ số 100, để có xâu chuỗi nạp cho tà giáo. Chữ ‘mala’ trong danh từ Angulimala có nghĩa là xâu chuỗi. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội).

Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành, đang bưng bát đi khất thực từng bước thảnh thơi thì nghe có tiếng chân chạy phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn bình thản bước đều. 

Đức Thế Tôn không cần phải thi thố phép thần thông. Ngài có niềm tin lớn nơi tình thương và trí tuệ của mình để vượt khỏi những tình trạng khó khăn.

Angulimala lớn tiếng gọi: - Tu sĩ kia, đứng lại! 

Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại.

Thấy vậy, Angulimala lớn tiếng hơn: - Đứng lại! Tu sĩ kia, đứng lại! 

Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đã đuổi kịp và la lên: - Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không dừng? 

Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng điềm tĩnh: - Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.  


Chưa bao giờ nghe một câu nói kỳ lạ như vậy, Angulimala ngạc nhiên hỏi: - Ông nói sao? Ông đang đi rõ ràng mà tại sao nói ông đã dừng lại? 

Đức Thế Tôn từ tốn nói: - Này Angulimala, trên con đường tạo tác những ác nghiệp thì ta đã dừng lại từ nhiều kiếp rồi. Còn anh, anh vẫn còn đang tiếp tục, anh nên dừng lại!

Lúc đó đức Thế Tôn đứng lại. Angulimala cũng đứng lại. Đức Thế Tôn nhìn thẳng vào Angulimala mà nói: - Anh biết không, ở đời ai cũng sợ đau khổ, ai cũng muốn sống, ai cũng sợ chết. Mình phải biết thương người! 

Angulimala la lên: - Trên đời này có ai thương tôi đâu, mà bảo tôi thương họ? Loài người là loài độc ác nhất ở trên đời, tôi muốn tiêu diệt hết loài người cho hả dạ tôi.

Đức Thế Tôn nói: -Này Angulimala, tôi biết anh đã chịu nhiều đau khổ. Cuộc đời đã bạc đãi anh, người ta đã không tử tế với anh, đã làm khổ anh. Anh đâm ra hận thù cuộc đời! Nhưng anh nên biết: hận thù chỉ làm cho mọi người thêm khổ đau, chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc cho đời mà thôi. 


Angulimala la lớn: - Tình thương hả? Ai là người có tình thương, ông chỉ cho tôi coi? 

Đức Thế Tôn vẫn dịu dàng: - Anh đã từng gặp vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào chưa? Các vị đó không những tôn trọng sinh mạng của con người, họ còn tôn trọng sự sống của loài vật. Họ tôn trọng các loài cỏ cây và đất đá nữa.

Nếu anh gặp được họ, anh sẽ thấy rằng tình thương là cái gì có thật. Khi có tình thương trong lòng, người ta không còn đau khổ nữa. 

Hận thù là một khối lửa đốt cháy con người, đốt cháy thế gian. Anh nên quay đầu lại, từ khước bạo lực, trở về với con đường cảm thông và yêu thương. 

Những lời nói của Thế Tôn tràn đầy từ bi, phát xuất từ trái tim. Angulimala là một con người thông minh nhưng bị hận thù che lấp. 


Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng, và anh ta biết rằng mình đang đứng trước mặt Đức Phật Thích Ca. Ngài đã vì lòng thương xót mà đến cứu anh ra khỏi vòng tội lỗi. 

Anh ta vứt gươm xuống đất, xin Đức Phật cho được xuất gia. Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản: - "Ehi! Bikkhu" (Hãy đến! Tỳ kheo). 

Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng kêu khóc của những người bị ông sát hại. Có hôm, đi khất thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu, chảy máu. 

Đức Phật giải thích cho biết, đó là Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình. Sau này, Angulimala tu chứng thánh quả A la hán. 

Tóm lại, chúng ta thấy câu chuyện Angulimala gặp đức Thế Tôn là một cuộc đấu gươm rất ngoạn mục: Angulimala có thanh gươm của bạo lực và hận thù. Đức Thế Tôn có thanh gươm của trí tuệ và từ bi.  


Trên thế gian này, chỉ có từ bi và trí tuệ hóa giải được bạo lực và hận thù mà thôi. Chúng ta hãy suy ngẫm những lời dạy vàng ngọc sau đây của chư Phật, chư Tổ:

Lấy oán báo oán
Oán nghiệp chập chùng
Lấy ơn báo oán
Oán nghiệp tiêu tan

Thắng lợi sinh thù oán
Thất bại chịu khổ đau
Không hơn thua thắng bại
Sống an nhiên tự tại

Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua đều xả bỏ
Giấc ngủ được bình yên

Hận thù diệt hận thù
Đời đời không thể có
Từ bi xóa hận thù
Định luật đúng thiên thu
 

Thích-Chân-Tuệ
Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada
Email: cutranlacdao@yahoo.com



Thế nào là một vị Chân Tu


Hỏi:

Thưa Thầy, thế nào một vị chân tu? Làm sao nhận định, đánh giá, biết được?

Đáp:

Đây là một vấn đề tế nhị, rất sâu rộng, khó giảng giải. Nơi đây bài viết nêu lên những nét đơn giản, khái quát.

Theo quan niệm Phật giáo, một vị chân tu là người thực tâm tu học, hành đạo chân chánh, hiền lương đạo đức. Muốn nhận định, biết được, hay đánh giá một vị chân tu, bản thân người này phải chân thực nắm vững chánh pháp, hiểu rõ thế nào là tu tập và hành đạo, nhất là phải tiếp xúc và thân cận lâu dài.

Chân tu không hẳn phải là vị tu trong chùa lâu năm, danh tiếng, nắm giữ các chức vụ cao, đệ tử đông, chùa to tượng lớn. Chân tu có thể ở nơi vắng vẻ tĩnh mịch hay ở nơi phố thị ồn ào để hoằng pháp độ sanh, tùy theo tâm nguyện và năng lực tu hành. 
Đạo tràng của vị chân tu có thể là các nơi tu viện yên tịnh, trang nghiêm, cũng có thể là nơi nhiều phiền não. Và cuối cùng, vị chân tu có thể mang cả hai hình tướng:

xuất gia hay tại gia.

Nhiều vị tu sĩ già nua tuổi tác ở chùa lâu năm lên chức lão làng, được người tán tụng là tùng lâm thạch trụ, thực chất chỉ là một đứa nhỏ 7 tuổi bị quăng vô chùa, do chiến nạn hay nghèo đói. Lớn lên ra đời không được vì ngu dốt, các đứa nhỏ này không học sách đời, lười học sách đạo, không siêng tu hành, tranh danh đoạt lợi, giành giựt địa vị, mê tín dị đoan, tỏ vẻ như ta đây chứng đạo, gạt gẫm bá tánh, mưu cầu lợi dưỡng. Một vài tổ chức thiền môn gặp phải mấy đứa nhỏ này quậy phá cho nát tan luôn.

Chuyện đời như chuyện đạo có hai mặt thuận và nghịch. Tu tập theo Phật giáo có thể qua hai giai đoạn: từ bi hỷ xả và giác ngộ giải thoát. Hành đạo theo Phật giáo có thể có hai hình thức: mặc áo cà sa hay mặc áo giấy, tùy cơ ứng biến. Nếu vị chân tu nắm giữ nhiệm vụ trụ trì một tu viện hay tự viện thì hành sự theo nghĩa «Trụ trì tức trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng». Nghĩa là người nào ở nhà Phật thì phải giữ đúng lời Phật dạy.

Nơi đây cũng nên lưu ý, hiện nay có nhiều kinh điển hay tài liệu nói «đây là lời Phật», nhưng thực ra không phải. Vị chân tu phải nắm vững để hướng dẫn bá tánh hiểu rõ hiểu đúng chánh pháp, theo đúng chánh đạo. Rất nhiều nghi lễ hình thức cúng kiến trong các chùa hiện nay là tà pháp, nhưng thu được quá nhiều lợi dưỡng, nên các tà sư vẫn lan truyền, như một loại bệnh dịch. Chẳng hạn như: lễ trai đàn bạt độ chẩn tế bình đẳng giải oan thủy lục thập loại cô hồn, lễ vớt vong như vớt bèo trên sông, lễ rãi tro, lễ phóng sanh thực chất là hại sanh. Tiếc thay nhiều vị lãnh đạo các giáo hội, các giáo phái xưng là thiền sư có khá đông đệ tử cũng bày trò này. Thật là lầm lẫn cho người tu theo. Họ ăn mặc sặc sở phi chánh pháp rất dễ nhận ra. Chỉ có những người u mê, tôn thờ sư phụ, nhắm mắt khâm tuân tự thân lạc vào tà đạo, còn lôi kéo thêm khá nhiều người khác.

Đức Phật có dạy:  
Nước đại dương chỉ có một vị mặn. Đạo lý chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.
Do đó tu tập theo Phật, chân tu phải dẹp trừ cả ngã chấp và pháp chấp,
thực hành theo những pháp môn, phương thức
dẹp trừ bản ngã.

Chân tu là vị tu sĩ hay cư sĩ có khuynh hướng tu tập dẹp trừ bản ngã để thể nhập vào thể tánh chân tánh vắng lặng vô biên, không màng ái dục và lợi danh tầm thường. Vị chân tu chưa giác ngộ và giải thoát, chưa tìm được nương tựa cho tâm linh và chưa tự làm ngọn đuốc soi sáng, nên trở thành người đàng hoàng, đứng đắn, mô phạm, đạo đức, sống an hòa trên cuộc đời, nghiêm trì giới luật, tuân thủ các qui tắc, mô phạm và luật pháp của
thế gian, không tổn hại ai.


Các vị chân tu phát tâm xuất gia tu hành, phát tâm tu tập tại gia, coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì không quan trọng chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo.  Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.  Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia.  Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.


Đừng nghĩ hễ là chân tu thì phải nổi tiếng hoặc vị nào nổi tiếng thì phải là chân tu.

Người u mê ham danh tiếng hão nên không nhìn ra được những vị chân tu rất bình dị,  chơn chất, giản dị, không chùa chiền, không phép lạ, chẳng tiếng tăm, không bằng cấp,
hay danh vọng gì cả.

Không có thứ thước đo nào của thế gian có thể lượng định được chân giá trị của một bậc chân tu. Muốn nhận chân giá trị của một người tu, vị đó phải là bậc chân tu giác ngộ, đắc đạo. Muốn đánh giá, chấm điểm thí sinh, vị đó phải là giáo sư giám khảo,
năng lực hơn hẳn, vượt trội thí sinh kia.


Chỉ có chìa khóa duy nhất, tinh thần vô ngã vô úy, đức Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước, là có thể mở ra cho người môn đệ nguồn hứng cảm vô tận của sự giải thoát và giác ngộ. Vị chân tu phải là người bát phong suy bất động. Những người thân cận bậc chân tu cảm nhận sự bình an trong nội tâm và tinh tấn trong sự tu tập.

Tuy nhiên, phân biệt giửa vị chân tu và kẻ giả tu hay tu giả, cần phải có thời gian. Nhiều người xuất gia học đạo với một vị thầy, tưởng đâu là chân tu, đạo cao đức trọng, qua tuổi tác già nua, chùa to tổ đình lớn, danh vọng thế lực, nhưng sau một thời gian dài thân cận, nhận chân sự thật, đành phải ra đi, có lời từ giả hoặc không.

Có vài tiêu chuẩn tối thiểu và căn bản để nhận xét một vị chân tu, 


chẳng biết đúng hay không. Chẳng hạn như:

Có những người tu lâu năm, thường đi chùa, niệm Phật, ăn chay, ngồi thiền, theo học giáo lý với nhiều vị thầy nổi tiếng, nhưng chẳng biết đức Phật dạy điều gì.

Có những người tu chỉ thích đến chùa làm công quả, hoặc thích tạo chùa to, tượng lớn, nhưng không hiểu chánh pháp.

Có những người tu ham thích có nhiều chùa, đông đệ tử, nhưng không dạy dỗ gì cả.

Có những người tu thích học lấy nhiều bằng cấp thế gian, không hề học chánh pháp.

Có những người tu thích bản thân được nổi tiếng, không thích kẻ khác nổi tiếng.

Có những người tu ham tài sản, danh lợi, sắc dục, luôn kêu gọi cúng dường.

Có những người tu còn dễ nổi sân, giận dữ, bực tức khi gặp chuyện trái ý, luôn chê trách người khác quá động.


Có những người tu kiêu căng ngã mạn, thích khoe khoang, điều khiển kẻ khác, thích được khen ngợi, tâng bốc, không thích kẻ khác hơn mình.

Có những người tu chấp vào thầy của tôi, hay pháp môn của tôi là hay hơn hết, tâm tư hẹp hòi, ưa chia rẽ, bè phái, thích tu tướng chẳng biết tu tâm.

Có những người tu học hay đọc nhiều kinh sách, hiểu biết giáo lý, nói đạo rất hay, không biết làm phước, bố thí, keo kiệt, bỏn sẻn, bo bo bám chặt vào tài sản, tiền bạc của mình.

Có những người tu học đạo lâu năm, không nói lời ái ngữ, không giữ gìn khẩu nghiệp, ăn nói xả láng, chê bai, chỉ trích, vu khống, bịa đặt, phỉ báng kẻ khác, kẻ khác không được đối đáp.

Có những người tu thích kẻ khác khiêm cung và lễ độ, cái ngã của kẻ khác phải nhỏ dần và kẻ khác phải biết cung kính tôn trọng bản thân như là các bậc tôn túc, bậc trưởng thượng, bậc đại lão.

Có những người tu thích các danh xưng đại sư, đạo sư, tăng giáo trưởng, pháp sư niên trưởng, thiền sư, vô thượng sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, dù tư cách không hơn chú tiểu.

Tóm lại, vị chân tu phát huy được tính chất
tam bảo của bản tâm:  
sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh.[]

BBT.PHTQ.CANADA

Kính mời tham khảo các bài viết sau:

THẬP ĐẠI NGUYỆN PHỔ HIỀN BỒ TÁT
ĐẠO PHẬT VÀ SỰ KHỔ ĐAU TRONG CUỘC SỐNG
TAM TUỆ HỌC VÀ TAM VÔ LẬU HỌC
NHÂN NÀO QUẢ NẤY
CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT
ĐƯỜNG LỐI TU THEO PHẬT
TÌM VỀ NGUỒN AN LẠC GIẢI THOÁT
PHẬT GIÁO PHẢI CHĂNG LÀ MỘT TÔN GIÁO
HÌNH THỨC CÚNG KIẾN TRONG PHẬT GIÁO