TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Tuesday 1 May 2012

***Ý NGHĨA LỄ PHẬT ĐẢN VÀ Ý NGHĨA LỄ TẮM PHẬT


Phật Đản Phật Đạo

Thích Chân Tuệ
Phật Học Tịnh Quang Canada

Các câu hỏi liên quan đến Lễ Phật Ðản:

1) Kính mong PHTQ CANADA giải đáp thắc mắc sau đây của một số Phật Tử thường đi chùa lễ Phật tụng kinh:  Hằng năm vào dịp rằm tháng tư âm lịch, khắp nơi tổ chức Lễ Phật Ðản một cách long trọng, thành kính và trang nghiêm. Tuy nhiên, có nhiều người theo đạo Phật vẫn cảm thấy chán đời vì cuộc đời đầy đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo. Việc tổ chức các buổi Lễ Phật Ðản có ý nghĩa gì, có ích lợi gì cho mọi người?

2) Trong các buổi Lễ Phật Ðản, có nghi thức "tắm Phật", nhưng Phật Tử không hiểu ý nghĩa, kính mong PHTQ CANADA vui lòng giải thích.
 
3) Nhân dịp Lễ Phật Ðản, kính mong PHTQ CANADA hoan hỷ giải thích thắc mắc sau đây: Bức tranh vẽ Ðức Phật đản sanh bước trên 7 đóa hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, có ý nghĩa gì? 

4) Kính mong PHTQ CANADA hoan hỷ giải thích sự khác nhau giữa Phật Lịch 2556 và Phật Ðản 2636?


Giải đáp 1: 
Năm nay, ngày rằm tháng tư (15-4) âm lịch, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 2636 Ðức Phật Thích Ca đản sanh, nhằm ngày 5-5-2012 (Phật lịch 2556), chúng ta cùng nhau ôn lại lịch sử và tìm hiểu ý nghĩa thâm trầm của ngày lễ trọng đại này.
 
Ðức Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là Thái tử Tất đạt đa (hay Sĩ đạt tha), con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.  Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với Công chúa Gia Du Đà La và hạ sanh Thái tử La Hầu La.  Trong các chuyến xuất cung du ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử trong nhân gian.  Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. 

Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài được 35 tuổi.  Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.

Toàn bộ lịch sử của đức Phật Thích ca từ ngày đản sanh, đến thành đạo và nhập niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái, nêu lên những điểm quan trọng như sau: 

1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ, không phân biệt nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết tu tập theo đúng chánh pháp.  Có hằng hà sa số các vị Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai. Chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là đức Phật Thích ca, còn tất cả các loài chúng sanh khác đều phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực. Ðây chính là ưu điểm nổi bậc của đạo Phật.
  
2) Ðức Phật không phải là vị thần linh, hay thượng đế tưởng tượng, chuyên ban phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt.  Cho nên những ai cúng kiến, tin tưởng, thờ lạy đức Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa hay ở nhà, đều không đúng chánh pháp, không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, xin xỏ nhiều thì thất vọng nhiều, cúng kiến nhiều thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì đau khổ nhiều.  Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của đức Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy đức Phật hay không, dù    theo tông phái nào hay không, thảy đều được an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai sau. Ðây chính là điểm bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật.

3) Từ trước thời đức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà thôi.  Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là thuyền bát nhã, dùng từ bi và trí tuệ giúp đỡ con người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải thoát.  Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến lúc vãng sanh về tây phương cực lạc hay thăng lên thiên đàng!  Ðây chính là cốt tủy của đạo Phật.

4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện, để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến với đạo, trong những bước ban đầu.

Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia, đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu bước thêm bước nữa, bước đó là: tìm hiểu xem Ðức Phật dạy những gì để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, chánh pháp ở đâu, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu người khác đâu? Ðây chính là ứng dụng thực tế của đạo Phật.

5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời.  Và mục đích quan trọng hơn hết là:  "hãy bước vào cửa đạo", hay "Phật Đạo", chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hoặc vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động cầu vãng sanh lưu xá lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, chiêm bái tượng Phật Ngọc, lễ hội Quán Âm đam mê chuyện trời rải hoa mạn đà la, hoa mạn thù sa, hay hoa trời linh thiêng, thích chuyện linh thiêng huyền bí hấp dẫn, mà không quan tâm việc tu học, tu tâm dưỡng tánh, không biết đến chánh pháp là gì? 

Bước vào cửa đạo, viên thành Phật đạo, nghĩa là phải biết tu học theo lời đức Phật dạy trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và giải thoát, chứ không phải tu mù, ai bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy, hết sức mê tín dị đoan! Ðây chính là cứu cánh mầu nhiệm cao siêu của đạo Phật.

Giải đáp 2: 
Theo truyền thuyết, ngay khi Thái tử Tất đạt đa đản sanh, có hai vị Long vương đến phun hai dòng nước tắm cho Thái tử.  Một vị phun dòng nước lạnh và một vị phun dòng nước nóng.  Hai dòng nước lạnh và nóng tượng trưng cho hai cảnh giới thuận và nghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui và buồn, sướng và khổ của cuộc sống hằng ngày, mà tất cả mọi người sanh ra trên thế gian này phải chịu đựng.  Thái tử Tất đạt đa đã chịu đựng được hai dòng nước lạnh nóng, cho nên sau này Ngài trở thành đức Phật Thích ca. 

Trong kinh sách, đức Phật dạy rằng: người nào chịu đựng được những sự thuận và nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó sẽ là một vị Phật trong tương lai.  Ðó là ý nghĩa hết sức thâm sâu vi diệu của đạo Phật.

Trong kinh sách, những cảnh thuận và nghịch của cuộc đời được gọi là: Bát Phong. Bát là tám, phong là ngọn gió. Bát phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh giới đối nghịch, đó là: lợi và suy,  hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc.
 
Lợi là những điều thuận lợi, đem lợi lộc, tài lợi đến cho con người. Suy là suy tàn, suy sụp, đem đến sự thua lỗ, mất mát cho con người.  Cả hai điều này đều làm cho tâm của con người bị động, bất an. 

Hủy là hủy báng, chê bai làm cho tâm con người bị động.  Dự là danh dự, khen tặng cũng làm cho tâm con người bị động, bất an.

Kế đến là xưng và cơ, nghĩa là xưng tán, tán tụng, nói tốt, và cơ bài, bài bác, chỉ trích, nói xấu. Hai ngọn gió này của cuộc đời cũng làm cho tâm của con người bị động, bất an. 

Cuối cùng của bát phong là khổ nạn và lạc thú trên trần gian. Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều, sanh lão bệnh tử là khổ, cầu mong không được cũng khổ, thương yêu phải chịu chia ly là khổ, thù ghét gặp nhau cũng khổ, thân thể ốm đau là khổ, tâm loạn động nhiều, bất an cũng khổ. Còn lạc thú trên đời cũng không ít việc đưa đến phiền não khổ đau. Chẳng hạn vui thú trò chơi bài bạc đỏ đen thường dẫn tới hoàn cảnh tiền mất tật mang, vợ bỏ con chê, cửa nhà tan nát, lâm cảnh bần cùng túng thiếu!

Trong Phật giáo, có nhiều hình thức nghi lễ nhằm mục đích truyền bá giáo lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc và hạnh phúc hơn.  Nhân ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm, khắp nơi tưng bừng tổ chức lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, để ghi nhớ công đức của đấng cha lành tìm ra con đường cứu độ chúng sanh được giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi. 


Giải đáp 3: 
Bức tranh đó được vẽ theo truyền thuyết: Ngay khi đản sanh, đức Phật bước đi 7 bước, có 7 đóa hoa sen đỡ chân, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, và tuyên bố: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn".

7 đóa hoa sen tượng trưng cho thất chúng trong đạo Phật, đó là: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, Phật tử nam và Phật tử nữ.  Nói chung là toàn thể con người, dù tại gia hay xuất gia đều có thể áp dụng giáo lý của đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày để được an lạc hạnh phúc và giác ngộ giải thoát. 

Muốn được như vậy, con người phải chứng ngộ được bản tâm thanh tịnh, được ví như đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, cho nên vẫn sống trong trần đời, mà chẳng cảm thấy phiền não khổ đau.
 
Khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, đức Phật ngồi trên thảm cỏ, nhưng trong hình vẽ hay tôn tượng, đức Phật đều ngự trên tòa sen, tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh.

Ngài đã giác ngộ được rằng: tất cả mọi chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh đó, cho nên đều có thể trở thành một vị Phật, nếu biết thực hành đúng pháp môn tu tâm dưỡng tánh. 
Bản tâm thanh tịnh trong kinh sách Phật giáo được gọi với nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn như là: chân ngã, chân tâm, chân tánh, Phật tâm, Phật Tánh, bản lai diện mục. Do đó, câu nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", có nghĩa là: trên trời dưới đất, hay nói cách khác, trong 6 cõi luân hồi: trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, chỉ có chân ngã, tức là bản tâm thanh tịnh, là đáng tôn kính.  Người giác ngộ được điều này, sẽ giải thoát được phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi.

Tóm lại, bức tranh vẽ đức Phật đản sanh đi 7 bước có hoa sen đỡ chân, ngụ ý: con người trải qua lục đạo luân hồi (6 cảnh giới: thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh) nếu biết tu tập sẽ giác ngộ giải thoát, đắc đạo thành Phật (bước sen thứ bảy).

Người nào hành động, nói năng, suy nghĩ các điều phải, điều đúng, điều tốt, tức là tam nghiệp thanh tịnh, thì tâm nhẹ nhàng, khinh an, đi lên (tay phải chỉ trời).

Người nào hành động, nói năng, suy nghĩ các điều trái, điều sai, điều xấu, tức là tam nghiệp chưa thanh tịnh, thì tâm nặng nề, bất an, đi xuống (tay trái chỉ đất).

Và trong lục đạo luân hồi, trải qua sanh lão bệnh tử, chúng sanh khổ là do chấp ngã; khi giác ngộ lý vô ngã, tức đạt được chân ngã, hay bản tâm thanh tịnh, tam nghiệp hằng thanh tịnh, tức đồng Phật vãng tây phương, tức đắc đạo, thành Phật vậy.

Giải đáp 4:
Khác nhau giữa Phật Lịch 2556Phật Ðản 2636.

Phật lịch tính kể từ năm đức Phật nhập diệt, tức 544 năm trước dương lịch.

Muốn tính Phật lịch, cộng thêm 544 năm vào dương lịch 2012. Cho nên năm nay, Phật lịch là PL.2556.

Tuổi thọ của đức Phật là 80 tuổi, cho nên Phật lịch cộng thêm 80 năm sẽ được Phật đản. Do đó, năm nay đại lễ Phật đản lần thứ 2636, tức là Pl.2556 + 80.

Ban Biên-Tập PHTQ
cutranlacdao@yahoo.com


Ý NGHĨA NGHI LỄ TẮM PHẬT
Tỳ khưu Thích-Chân-Tuệ

Trong Phật giáo, thường có nhiều hình thức nghi lễ, nhằm mục đích truyền bá giáo lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc và hạnh phúc hơn.  


Theo truyền thuyết, ngay khi Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh, có hai vị Long vương đến phun hai dòng nước tắm cho Thái tử. Một vị phun dòng nước lạnh và một vị phun dòng nước nóng.

Hai dòng nước lạnh và nóng tượng trưng cho hai cảnh giới thuận và nghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui buồn và sướng khổ của cuộc sống hằng ngày, mà tất cả mọi người sanh ra trên thế gian này phải chịu đựng. Thái tử Tất Đạt Đa đã chịu đựng được hai dòng nước lạnh và nóng đó, sau này trở thành Đức Phật Thích Ca.

Trong kinh sách, Đức Phật dạy rằng: người nào chịu đựng được những cảnh thuận nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó là một vị Phật trong tương lai. Đây là ý nghĩa hết sức thâm trầm vi diệu của đạo Phật.

Trong kinh sách, những cảnh thuận nghịch của cuộc đời được gọi là: bát phong. Bát là tám, phong là ngọn gió.  Bát phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh giới thuận nghịch, đó là: lợi lộc và suy sụp, hủy báng và danh dự, xưng tán và chỉ trích, khốn khổ và lạc thú.

Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều: sanh lão bệnh tử là khổ, cầu mong không được, thương yêu phải chịu chia lìa, thù ghét gặp nhau, thân thể ốm đau, tâm loạn động bất an cũng đều khổ. Còn hưởng thụ các lạc thú trên đời cũng không ít việc đưa đến phiền não khổ đau sau đó. Nghi lễ tắm Phật trong các buổi đại lễ Phật đản dựa vào truyền thuyết hai vị Long vương phun hai dòng nước, một dòng nước lạnh và một dòng nước nóng, tắm cho Thái tử Tất Đạt Đa trong ngày đản sanh nói trên.

Khi múc gáo nước đầu tiên, tắm bên vai phải của tôn tượng Đức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp việc phải, vừa ý, gọi là thuận cảnh, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên.  

Khi múc gáo nước thứ hai, tắm bên vai trái của tôn tượng xinh xắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp việc trái ý, gọi là nghịch cảnh, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên.


Đây chính là ý nghĩa sâu xa của nghi lễ tắm Phật và việc tu tập theo đạo Phật vậy.








BƯỚC SEN THỨ BẢY – VÀO QUẢ VỊ PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
 
Mùa Phật Đản đối với những người con Phật là mùa hoa sen nở, thật khó có thể diễn tả hết được sự hỷ lạc bình an một cách vi diệu trong mùa lễ hội nầy. Hạnh phúc thay, lành thay bậc trí tuệ giác ngộ ra đời. Cách nay 2635 năm, tại vườn Lâm tỳ ni, thành Ca tỳ la vệ, Thái Tử Tất Đạt Đa chào đời, giống như bao hài nhi khác, là một con người sống trong thế giới ta bà, thật sự có cha mẹ, có gia đình và thân bằng quyến thuộc.



Theo truyền thuyết, ngay khi đản sanh Thái Tử Tất Đạt Đa đi 7 bước, có 7 đóa sen đỡ chân. Truyền thuyết nầy mang nhiều ý nghĩa thâm sâu và nếu hiểu theo tinh thần học Phật, có rất nhiều lợi ích cho người tu. Một vị Phật ra đời, hay một con người ở thế gian đều có thể tu giải thoát, đạt đến địa vị Tôn Quí Tối Thượng. Sự đản sanh của một vị Bồ Tát hy sinh cả cuộc đời vì lòng đại từ đại bi vô tận và đã hành Bồ Tát đạo nhiều đời nhiều kiếp, kiếp cuối (nhất sanh bổ xứ) trải qua nhiều khổ hạnh và thiền định để mong tầm đạo giải thoát cứu khổ chúng sinh.



SÁU BƯỚC HOA SEN - HÀNH BỒ TÁT ĐẠO



Thái Tử Tất Đạt Đa sau khi cắt đứt mọi trần duyên ràng buộc, xuất gia tu hành  chứng Túc Mạng Minh, thấy biết nhiều đời trước Ngài đã từng sanh ở đâu trong lục đạo, làm gì, tất cả những chuyện quá khứ, được chính Đức Phật thuyết và các vị tỳ kheo kết tập lại trong Kinh Bổn Sanh Bổn Sự.



Như vậy, đã nhiều kiếp trước khi thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật cũng đã trải qua sáu nẻo đường sanh tử luân hồi. Hình ảnh bánh xe luân hồi diễn tả sự trôi lăn tử sinh của chúng sanh trong lục đạo, tức sáu cảnh giới: trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh.



Đạo Phật không tin vào Thượng Đế sáng tạo toàn năng, toàn quyền thưởng phạt con người, tùy tiện theo lòng thương ghét. Niềm tin vào luật nhân quả bình đẳng, người tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác từ thân, khẩu, ý, nhận kết quả hay lãnh hậu quả, dù là người thân yêu nhất muốn cứu hay thay thế cũng không được. Dụ như hòn đá nặng tất phải chìm trong nước, giọt dầu nhẹ tất nhiên nổi trên mặt nước, đó là nhân quả không sai. Niềm tin sâu luật nhân quả thiện ác ảnh hưởng vào sự tái sanh 6 cõi luân hồi (thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh).



Cõi Thiên: Sanh về cõi trời, nơi phúc lạc thế gian, hưởng phước đã tạo tác.

Cõi Nhơn: Sanh vào nhân gian làm người, giàu hay nghèo, có thiện có ác.

Cõi TuLa: Sanh nhà quyền quí, phước báo gia đình, cùng chung cộng nghiệp.

Cõi Địa Ngục: Sanh vào nơi đau khổ, vì nghiệp ác sâu dầy, thiện nghiệp ít.

Cõi Ngạ Quỉ: Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, tham lam ích kỷ.

Cõi Súc Sanh: Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát, si mê quá nặng.



Tuy sống trong lục đạo luân hồi, nhưng các tiền kiếp Đức Phật là vị Bồ Tát hằng sống với Bát Chánh Đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định) và thường hành Lục Độ Ba La Mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ).



Sự nổ lực tu tập Bồ Tát Hạnh, thực hành Bồ Tát Đạo của riêng từng cá nhân con người trong thế gian, có thể vượt thoát khỏi lục đạo sanh tử hay không? Bước hoa sen thứ 7 nói lên rằng điều đó có thể, điều đó không do ân huệ trời ban cho, hay thần linh thượng đế dành phần riêng cho ai cả, mà chính do đại từ, đại bi, đại lực, đại tinh tấn của người tự tu, tự chứng đạt được mà thôi.






BƯỚC SEN THỨ BẢY - QUẢ VỊ PHẬT



Sáu bước sen tinh khiết được tích tụ từ Bồ Tát Hạnh trong lục đạo. Với tâm từ bi thanh tịnh sáng suốt nhiều đời nhiều kiếp tu hành, Bồ Tát từng xả bỏ thân mạng cứu khổ ban vui, chan rải ánh sáng từ bi và trí tuệ cho muôn loài. Ý nghĩa của 6 bước hoa sen đầu tiên thể hiện sự đản sanh trong lục đạo luân hồi. Thái Tử Tất Đạt Đa dừng lại ở bước sen thứ 7, đó chính là kiếp cuối cùng, đạt quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay trong cõi nhân gian này.  



Đức Phật khi đản sanh bước đi được đến đóa sen thứ bảy, chứng thực một sự thật sâu xa, thật khó thấy khó hiểu, khó nghĩ bàn. Đó là Niết Bàn tịch tịnh của chính con người tu từ bi và trí tuệ sẽ tự cảm nhận được một cách rõ ràng, khi chứng đắc quả vị Phật.



Đức Phật dạy:

Ai còn tham luyến tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi, thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không còn chấp . Ai không còn chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có sanh diệt. Ai không còn sanh diệt, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau. (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh).



Đệ tử Phật môn, muốn vượt thoát ra khỏi sự khổ nạn trong 6 cõi luân hồi sanh tử và bước vào được hoa sen thứ 7, đạt đến Niết Bàn an tịnh không còn đau khổ nữa, cần phải tu học và thực hành theo lời Đức Phật dạy.



Đức Phật dạy con người phải chiến đấu mạnh mẽ với tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê và phải dùng gươm trí tuệ cắt đứt những đam mê dục vọng danh lợi mà người thế gian cho là quí giá cần chiếm đoạt và hưởng thụ. Theo "Lý duyên khởi" thì:



- Cái nầy có, thì cái kia có (có ham muốn ích kỷ, thì có đau khổ tranh chấp)

- Cái nầy sanh, thì cái kia sanh (có trói buộc tham ái, thì có thù oán sân hận)

- Cái nầy không, thì cái kia cũng không (không có tham dục, không có ưu bi khổ não)

- Cái nầy diệt, thì cái kia cũng diệt (không có ta, không có vô minh sanh tử).



Vô minh diệt, thì có Niết Bàn. Chấp ngã, ham muốn, dục vọng càng to, càng xa Niết Bàn. Đức Phật là bậc đại từ, đại bi, đại trí, đại lực, xa rời tất cả ác pháp, sáng suốt phá tan vô minh phiền não, vượt qua đối đãi (nhị nguyên), đạt được Niết Bàn tịch tịnh. Người phàm trần thường chấp đúng sai, hơn thua, thương ghét, tốt xấu, khen chê, thật giả, nên bị chi phối, trói buộc, mê mờ, đắm sâu trong vô minh, sinh tử mãi trong vòng luân hồi, không thoát ra được.



Cũng chính vì cái bản ngã ràng buộc mà chúng sanh chìm nổi trong biễn khổ luân hồi. Đức Phật dạy pháp quán vô ngã, nhìn cho thấu đáo tứ đại đều do duyên hợp thành, chưa diệt được cái ta tự tôn tự đại, thì còn đau khổ, còn sanh tử. Chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc, bước ra khỏi lục đạo là giải thoát sanh tử.



Đức Phật không từ một cõi siêu nhiên thần bí nào. Bản chất một con người, nên Ngài luôn cảm nhận được một cách trọn vẹn nổi thống khổ đời người, từ lúc sanh ra, già, bịnh và chết. Khi Đức Phật chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, Ngài lưu lại thế gian thuyết pháp và giáo hóa cho tất cả chúng sanh bằng tâm từ bi bình đẳng tuyệt đối, chỉ rõ con đường tu để đạt đến Niết Bàn tịnh lạc. Ngài tuyên bố: Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.



Phiền não biết, phiền não đoạn.

Tham sân biết, tham sân dứt.

Vui buồn biết, buồn vui dừng.

Thiện ác biết, thiện ác bặt.

Từng sát na biết, còn gì dính mắc.

Tự tại vĩnh hằng.

Trời xanh mây trắng bay.



NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

TKN Thích Nữ Chân Liễu




BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN PHẬT ĐẢN

TKN Thích Nữ Chân Liễu

Ban ngày trời chiếu sáng
Ban đêm trăng chiếu sáng
Như hào quang Đức Phật
Chói sáng cả ngày đêm.
**
Đèn hoa sen chiếu sáng
Người trí tuệ sâu xa
Như trăng khỏi mây mù
Soi sáng khắp nhân gian.

Hằng năm, mùa Phật Đản đèn hoa sen được thắp sáng khắp nơi trên đường phố toàn thế giới. Trong đó gồm có Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Nepal, Trung Quốc, Thái Lan cùng các quốc gia đông Nam Á khác. Lễ hội với những lồng đèn rực rỡ, ngoài việc thể hiện nét văn hóa truyền thống đặc sắc của Phật giáo và niềm hân hoan hạnh phúc mừng Đấng giác ngộ ra đời. Những người con Phật còn phải tự nhắc nhở tri ân và luôn củng cố niềm tin sáng suốt đầy trí tuệ vào giáo Pháp từ bi bình đẳng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó chính là ý nghĩa toàn mỹ trong dịp kỷ niệm ngày đản sanh của Đức Từ Phụ, vị Phật giác ngộ và giải thoát chúng sanh ra khỏi biển khổ sông mê.

BẰNG CON TIM VÀ MỘT TẤM LÒNG

Sống trong nhân gian xuất gia hay tại gia và còn có rất nhiều hình tướng, giai cấp, trình độ, tùy hoàn cảnh, tùy phước duyên tu học, tùy căn cơ mà xiển dương chánh pháp. Bằng con tim chân thành và một tấm lòng bao dung con người có thể giải quyết được vấn đề nan giải trong gia đình, bức xúc trong tình cảm, nỗi tuyệt vọng áp bức, bất công, xung đột, tranh chấp trong cuộc sống. Thiền môn cũng là nơi người Phật tử trở về nương tựa, tịnh tu, gởi gấm niềm tin hy vọng và tìm được những phương pháp xoa dịu nổi đau tâm linh, giải quyết đau khổ mà họ đang gánh chịu.

Trong một mùa Phật đản, Chư Tăng Ni đưa Phật tử đi thăm một cảnh Đức Phật thành đạo trong khu vườn xung quanh chùa. Cảnh được diễn tả là một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi ở gốc cây bồ đề đang tọa thiền, cùng trong cảnh có ba tượng người nữ rất đẹp đang múa. Hai người Phật tử nhìn tượng ba cô gái, người thứ nhất buộc miệng khen:
-     Ồ ba cô tiên đẹp thật !
-     Tiên gì mà đẹp chứ? Không biết đừng có nói bậy! Là ba con ma nữ phá Phật đó! Đọc thêm giáo lý đi bà ơi!
-     Đẹp thì tôi nói đẹp có sao đâu? Bà giỏi dữ hén?

Qua lời đối đáp của câu chuyện trên chúng ta thử suy ngẫm. Trong khi Đức Phật chứng Niết Bàn, quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ lâu xa rồi, tại sao vẫn còn quá nhiều chúng sanh chìm đắm trong luân hồi, vậy Ngài đã dạy những gì? Chúng ta thực hành được nhiều hay ít trong tu tập? Hay chỉ là dùng Phật Pháp để hơn thua, được mất, danh và lợi?

Đúng sai không chấp thủ
Thương ghét khéo lìa xa
Thấu suốt từ vô ngại
Thân nầy là thân chót
Bậc đại trí đại nhân
Không nhiễm lụy pháp nào
Ái diệt tự giải thoát
Nhờ vậy chứng Niết bàn.
(Kinh Pháp Cú)

Thuốc không có hay dở mà chữa được bịnh là thuốc tốt. Pháp không có cao hay thấp mà Pháp nào đem lại an lạc hạnh phúc và chữa được tâm bịnh là Chánh pháp. Không có gì là khó để tìm được ánh sáng Phật pháp, nếu thấy rằng đời người rất ngắn, tự mình cố gắng xua tan bóng đêm trong tận cùng thâm tâm. Bóng đêm càng lớn, con người càng nhỏ bé và một ngày nào đó sẽ bị nhấn chìm vào địa ngục đau khổ.


THÚC LIỄM THÂN TÂM

- Khi đang tu tập, con người còn sống trong cảnh giới tương đối nên tâm còn động. Từ lời nói, suy nghĩ, hành động chỉ theo bản tánh vui buồn, hờn giận, khi thương khi ghét. Như vậy, rõ ràng là tâm động. Tâm động thì còn trong cảnh giới luân hồi. Vẫn biết giữa đời thường có tốt có xấu, tâm thường bị lòng đố kỵ chi phối, thấy cái xấu của người thì dễ, ít thấy được cái tốt, như lòng bàn chân úp xuống mặt đất khó nhìn thấy được. Khi hành động, lời nói có sự suy nghĩ và trí hiểu biết, chứ không vì bị ép buộc hay thành kiến, nguy hiễm nhất là tâm sân hận đưa tới sự hối hận muộn màng.

Tùy trình độ giác ngộ tu tập chuyển nghiệp, do đó nhiệm vụ nặng nề của người Thầy là dẫn dắt chúng Phật tử, thức tỉnh họ trong khi còn sống là còn cơ hội, khi bỏ thân xác này thì đã trể rồi. Mọi người đều phải đối diện với nghiệp tốt xấu đã tạo trong suốt cuộc đời, mà thọ lãnh quả báo (gieo giống nào thì gặt quả đó).
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, người tu vào được cảnh giới tự tại sáng suốt, cũng có nghĩa là lúc bấy giờ tâm giống như Chư Phật, luôn luôn sống trong chánh định chánh giác, lời nói suy nghĩ hành động đều thanh tịnh. Không có tham vọng hay mong cầu ích kỷ riêng tư, không còn phiền não, dứt trừ được tam độc tham lam, sân hận, si mê. Từ giác ngộ đi đến mục tiêu giải thoát sanh tử đau khổ là cứu cánh chân thật của đạo từ bi trí tuệ.

- Khi giác ngộ, Đức Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề, trên thế gian này và theo lịch sử ghi chép lúc đó Ngài 35 tuổi. Vị sa môn Cồ Đàm sau khi chứng đạo thấy được tam thiên đại thiên vô số thế giới trong sáu cõi (thiên, nhân, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh) và hiểu rõ vô thường, nhân quả, sanh lão bịnh tử chi phối sáu cõi đau khổ trong sanh tử luân hồi. Danh từ Niết bàn là trạng thái của tâm Phật ở hiện tại lúc còn sống, không phải sau khi chết mới thấy được. Tự tại hoàn toàn - Tâm tỉnh lặng - Chính là niết bàn.
Mong muốn được trạng thái tâm sáng suốt trí tuệ như Chư Phật, ngoài việc làm phước để trưởng dưỡng lòng từ bi, chúng ta còn phải cố gắng học hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được Niết bàn an lạc giải thoát và được hạnh phúc ngay hiện đời.

Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.
(Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh).

Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác. Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được các bậc truyền nhân chân tu thật học, chân chính rao giảng khắp nơi trên thế giới. Tấm lòng vị tha vô ngã, vô chấp, vô phân biệt của những bậc xuất gia trưởng tử Như Lai, là cố gắng đem chánh pháp thức tỉnh chúng sanh giác ngộ, mong họ sớm xa rời tà kiến, mê tín, xem nhẹ danh lợi và buông bỏ được lòng tham lam ích kỷ từ nhiều đời nhiều kiếp.

"Trên đời này, không có sự ghen tị tranh đấu chính là từ bi, không phân biệt cao thấp, hay dở chính là trí khôn, không nghe thấy đàm tiếu chính là sự thanh tịnh, không nhìn thấy hơn thua là tự tại, không tham vọng chính là bố thí, từ bỏ ác là hành thiện, sửa đổi chính là sám hối, nhún nhường là lễ Phật, tha thứ là sự giải thoát".

BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN

Tâm là vô thường, thay đổi khi tối khi sáng. Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ. Người tu không có ích kỷ, không cố chấp, không cầu danh lợi, sống trong bao dung và tha thứ đó là hương thơm của hoa sen biểu tượng của từ bi. Ngọn đèn trí tuệ thắp sáng trong hoa sen là người tu biết thiện ác, chánh tà, đúng sai, nhưng không có sự phân biệt. Tâm trong sáng như gương, khéo léo hành sử, tán dương thiện xa lìa ác chứ không khinh chê, cũng không phân biệt đối xử yêu hận trói buộc.

Trí tuệ và lòng từ bi giúp cho hành giả trên đường tu giữ được tâm chân chánh, thanh tịnh và sáng suốt. Tự giác ngộ rồi thì ly tham, ly sân và si mê, chấm dứt được giải thoát. Sự hạnh phúc an lạc không do ai ban tặng hay do cầu xin mà được, mà do ở bản thân của mỗi người tự tu, tự chuyển đổi, luôn luôn chánh niệm thanh lọc tâm thật trong sạch và chánh định (thanh tịnh). Biểu tượng hoa sen là hương thơm đức hạnh người tu có niềm tin đúng chánh pháp, trên đường hành đạo có lòng từ bi cao thượng và tuệ giác sáng suốt như Chư Phật. Ngọn đèn chiếu sáng bên trong tượng trưng người tu thoát ra khỏi bóng đen tâm tối của vô minh trong sanh tử và đạt được giác ngộ và giải thoát.

Câu chuyện giáo lý cần suy ngẫm như sau:
Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về, trên đường về, anh đụng phải một người đi đường. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!

Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người tu cần phải có.
ĐÈN HOA SEN biểu tượng niềm tin
Hạnh phúc thay, Đức Phật Đản Sanh
Hạnh phúc thay, Chánh Pháp trường tồn
Hạnh phúc thay, Tứ chúng đồng tu
Hạnh phúc thay, thiên hạ thái bình.

Kính chúc quí vị an lạc và hạnh phúc trong giới pháp của Chư Phật. Mùa Phật Đản hãy cùng nhau sám hối, cùng nhau thứ tha, giải bớt nỗi oan khiên nghiệp báo, xoa dịu thống khổ của kiếp người, cho nhau niềm yêu thương, xóa tan thù hận, có được sự cảm thông và hiểu biết, sớm thoát ly biển sanh tử luân hồi. Nguyện cùng tất cả chúng sanh trong pháp giới đều trọn thành Phật đạo. []

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
TKN Thích Nữ Chân Liễu


XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU (Giọng đọc SƯƠNG ANH)





KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
Kính mừng Ngày Đản Sanh
Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
Chiêm bái đấng cha lành
Cứu chúng sanh thoát khổ!

Khắp thế giới vui mừng
Ngày Đại Lễ Phật Đản.
Tổ chức thật tưng bừng!
Cõi Trời hồng trong sáng.

Phật giảng Bát Chánh Đạo
Tám chân lý tu hành.
Giáo lý tu giải thoát
Khỏi biển khổ chúng sanh..!

Phật dạy Tứ Diệu Đế
Bao đau khổ trần gian..!
Phương pháp tu diệt khổ
Siêu thoát cõi Niết Bàn.

Sáu cõi phải luân hồi (1)
Trả vay vì nghiệp báo..!
Muốn chấm dứt nổi trôi
Phải tu để siêu thoát.

Vô số kiếp tu hành
Thích Ca đã thành Phật.
Biết rõ cả Lục Thông! (2)
Ngài giảng Đạo chân thật.

Đã có vô số Phật
Nhiều thế giới bao la...
Tất cả đều an lạc
Sống thọ mãi - không già!

Tạ ơn Phật vĩ đại
Phật tử nguyện tâm thành
Chiêm ngưỡng Đấng Từ Phụ
Theo giáo lý tu hành .

Minh Lương Trương Minh Sung
Cali . ngày 26 / 04 / 2012
Kính mời xem bài viết theo link:

SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN PHẬT ĐẢN
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2015/05/bieu-tuong-en-hoa-sen-phat-an.html

TÂM CHƯ PHẬT SẼ THÀNH
SỰ VÔ MINH TRONG PHẬT GIÁO
LUÂN HỒI SANH TỬ TRONG ĐẠO PHẬT
37 PHẨM TRỢ ĐẠO TRONG CHÁNH PHÁP
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2013/03/chanh-phap-trong-ao-phat-gom-co-37-pham.html