TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Sunday 11 August 2013

*** PHÁP SÁM HỐI CHÂN CHÍNH




Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

TK THÍCH CHÂN TUỆ
 
* *
Pháp sám hối chân chính có hai phần:
Lý Sám Hối và Sự Sám Hối. 

Trước hết, chúng ta nói về "Sự Sám Hối". 
Khi tâm của chúng ta còn mê mờ, chưa được giác ngộ Chân Lý, chưa hiểu biết Chánh Pháp, chúng ta phải hành theo sự sám hối.  Nghĩa là đối trước tôn tượng chư Phật, chư Bồ Tát, chúng ta phải hành lễ bái, tỏ bày sám hối, mong diệt nghiệp chướng, tội chướng, siêng năng tinh tấn, mỗi tháng hai lần.
Mỗi lần như vậy, chúng ta đọc bài kệ như sau:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp.
Giai do vô thủy tham sân si.
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh.
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối. 
 
Nghĩa là chúng ta đã tạo không biết bao nhiêu ác nghiệp từ xưa đến giờ, đều do ba điều độc hại: tham lam, sân hận và si mê, thể hiện qua ba hình thức: thân hành động, khẩu nói năng, ý suy nghĩ. Tất cả những tội lỗi đó, những nghiệp bất thiện, những nghiệp ác đó, chúng ta đều thành tâm thực lòng, ăn năn sám hối, quyết tâm chừa bỏ, không dám tái phạm, cố gắng gìn giữ tam nghiệp thân khẩu ý cho được thanh tịnh.
 
Trong kinh sách có câu:
"Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền",
 tức là: "Trước bảo tọa thân con ảnh hiện". 
Nghĩa là đối trước tôn tượng chư Phật, chúng ta hiện nguyên hình con người thực của mình, phản ảnh đúng nội tâm của mình, để thành tâm phát lồ sám hối, không che giấu bất cứ điều gì cả. Chúng ta có thể che giấu tội lỗi, che giấu tật xấu, đối với người đời, chứ đối với chư Phật, đúng ra đối với Phật Tâm của chúng ta, chúng ta chẳng thể giấu giếm bất cứ điều gì.  Ngày xưa, để cho mọi người dễ hiểu, cổ nhơn giải thích đó chính là lúc chúng ta đứng trước gương chiếu yêu, trước diêm vương cảnh đài, bất cứ việc gì chúng ta đã làm, đã nói, đã nghĩ, trong suốt cuộc đời đều hiện ra hết tất cả.
* *
Nay nói về "Lý Sám Hối". 
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Nhất thiết duy tâm tạo". 
Nghĩa là muôn việc trên thế gian này đều do tâm của chúng ta tạo ra tất cả.  Tâm của chúng ta tạo ra thiên đàng.  Tâm của chúng ta tạo ra địa ngục.  Thí dụ chúng ta phát triển các tâm lượng rộng lớn, tốt đẹp như từ bi hỷ xả, tức là chúng ta phát triển cảnh giới thiên đàng, cực lạc và sống an lạc trong cảnh giới đó. 
 
Nếu chúng ta chấp chặt những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, phát triển những tâm lượng hẹp hòi, ích kỷ, đố kỵ, ganh tị, tham lam, sân hận, si mê, khen mình khinh người, lợi mình hại người, tức là chúng ta phát triển cảnh giới địa ngục và sống bất an trong cảnh giới đó vậy.
 
Sự sám hối ví như chiếc xe đạp.  Nghĩa là người chỉ biết sự sám hối thôi, không hiểu rõ lý lẽ, thì đường tu tiến chậm.  Đi chùa lạy Phật, tụng kinh bái sám, từ lâu lắm rồi, mà sao vẫn còn bực mình nhiều chuyện quá, phiền não vẫn còn y nguyên, có khi còn nhiều hơn lúc trước nữa.
Lý sám hối ví như động cơ. Nghĩa là người chỉ biết lý sám hối thôi, không chịu hành sự, thì đường tu cũng không tiến.  Hiểu rõ lý sám hối và năng hành sự sám hối, nghĩa là "lý sự viên dung", lý sự đầy đủ vẹn toàn, thì đường tu tiến được rất nhanh, cũng như đi xe có gắn máy thì chạy nhanh hơn xe đạp vậy.
 
Tu tiến có nghĩa là: giảm bớt phiền não và khổ đau, sống được cảnh giới an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.
Dù theo bất cứ tôn giáo nào chăng nữa, thực ra vị giáo chủ cũng không thể ban phước cho chúng ta được bình an, sung sướng hay an lạc và hạnh phúc. Các ngài chỉ cho chúng ta bản đồ, chỉ cho chúng ta phương pháp, để chúng ta tự thực hành, tự đi đến cảnh giới an lạc và hạnh phúc mà thôi.  Như vậy mới thực là chí công vô tư vậy. 
 
Vì thế cho nên, những người có trí tuệ bát nhã, luôn luôn giữ gìn tam nghiệp cho thanh tịnh, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, phát tâm bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, chứ không phải chỉ biết cầu nguyện, van xin, cầu khẩn, khấn vái.  Tại sao vậy?  Bởi lẽ chẳng được lợi ích gì, chỉ thêm phiền não, vì cầu nguyện hoài mà không được đáp ứng gì cả! 
Cầu không được, khổ là cái chắc.
Cầu bất đắc, tức khổ không sai.
 
Có nhiều cách tu, nhiều phương pháp, nhiều pháp môn để giúp chúng ta dừng nghiệp và chuyển nghiệp, cho nên Phật giáo có nhiều tông phái.  Tịnh độ tông dùng câu niệm Phật, dùng cách quán tưởng, dùng thời khóa tụng kinh, để dừng tất cả các nghiệp.  Mật tông dùng câu thần chú đà-la-ni để dừng tất cả các nghiệp.  Thiền tông dùng pháp khán thoại đầu, dùng công án nhà thiền, hay dùng "pháp đối cảnh vô tâm", hay "pháp tri vọng", để dừng tất cả các nghiệp.
Dừng được một phần của "ba nghiệp", chúng ta bớt được một phần "chướng nạn" của cuộc đời.  Dẹp được một phần "nghiệp chướng" của bản thân, chúng ta hưởng được một phần cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.
Thí dụ như bớt được chút lòng tham lam, chúng ta bớt được chút khổ nạn, bởi vì tham thì thâm. 
Thí dụ như bớt chút lòng sân hận, chúng ta bớt được chút phiền não nhức đầu, bởi vì sân thì sinh sự.  
Thí dụ như bớt chút lòng si mê, chúng ta bớt được chút khổ đau, bởi vì mê thì mất tiền, mất của, mất tất cả!
* *
 
Đến đây, chúng ta cần hiểu rõ, phân biệt rõ: thế nào là "tội và nghiệp", và thế nào là "tội báo và nghiệp báo".  Sau một thời gian tu hành nào đó, khi tâm được thanh tịnh, ba nghiệp không còn, thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh, "tội và nghiệp" không còn nữa, bởi vì chúng ta không còn tạo nghiệp, không còn tạo tội.
 
Do thành tâm sám hối, "tội và nghiệp mới" không còn tạo ra nữa, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là quả báo, từ "tội và nghiệp cũ" vẫn còn.  Chúng ta đã tạo "nghiệp nhân" thì nhứt định phải nhận "nghiệp quả", không thể chạy đâu cho khỏi.  Người đời thường gọi đó là "số trời đã định", hay "định mệnh đã an bài", hoặc "chạy trời không khỏi nắng", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Dù có lên non,
xuống biển, vào hang,
nghiệp báo đã mang,
không ai tránh được .
 
Các bậc thánh thiện là những người đã thanh tịnh được tam nghiệp nên có cuộc sống an nhàn, tự tại trong nội tâm, trong tâm thức. Tuy nhiên, trên hình thức bên ngoài, chúng ta thấy cuộc sống của các vị giáo chủ, của các bậc thánh nhơn không phải là không có sóng gió, không phải là không có chuyện bất trắc xảy ra.  Có khi các ngài vẫn bị vu cáo, nhục mạ, phỉ báng, xét xử, kết án và thậm chí, bị hành hình như những tội phạm hình sự. 
 
Tại sao vậy? Bởi vì, các ngài tuy đã dứt hết các "tội và nghiệp" đời này, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là "quả báo", từ nhiều đời và nhiều kiếp trước vẫn còn, các ngài vẫn phải trả.  Các ngài, cũng như bất cứ ai, không thể đứng ngoài luật nhân quả được. 
 
Chẳng hạn như: Vào cuối thế kỷ thứ ba, vị tổ thứ hai mươi bốn là Aryasimha tuy đã đắc đạo, nhưng vẫn bị vua Kế Tân chém đầu.  Vào đầu thế kỷ thứ bảy, vị tổ thứ hai mươi chín, là Tổ Sư Huệ Khả, bị vu cáo và bị giam đến chết trong ngục, thọ 107 tuổi!  Tổ Bá Trượng Hoài Hải trong một buổi thuyết giảng, có gặp một ông lão, nguyên là một vị Hòa Thượng, vì hiểu sai và giảng sai luật nhân quả, cho là một khi con người đắc đạo rồi, thì không phải trả quả báo, thoát ngoài luật nhân quả, cho nên phải bị đọa 500 kiếp chồn.
 
Chúng ta cũng thường hay nghĩ như vậy, cho là sám hối xong thì sạch tội và sẽ được bình an, không tai nạn gì nữa cả, không phải trả quả báo!  Hiểu như vậy là sai!  Chúng ta thường lầm lẫn "tội nghiệp mới" với "quả báo cũ".  Chúng ta cần nên biết rằng chúng ta không thể nhờ bất cứ ai tha tội, xóa tội, miễn tội, gánh tội thay thế cho chúng ta được.  Tại sao vậy?  Bởi vì như vậy trái với luật nhân quả, lẽ công bằng và không hợp tình, hợp lý chút nào. 
 
Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật chỉ dạy rất rõ ràng vấn đề "tội và báo" này.  Khi nào chúng ta không còn tâm si mê muốn quịt nợ, chúng ta sẽ nhận biết được dễ dàng hơn, thấu đáo hơn, không còn bị dối gạt, không còn lầm lẫn nữa.
Chúng ta thử xét thí dụ sau đây, để hiểu biết thêm về
"tội báo, nghiệp báo, quả báo, và phước báo".  

Theo luật nhân quả, do hậu quả của tội lỗi đã làm, gọi là "nghiệp nhân", con người gặp những bệnh tật, những tai nạn, những bất trắc ở đời, gọi là "nghiệp quả hay nghiệp báo".  Con người phải gánh chịu "quả báo hay tội báo" như vậy, ví như phải ăn một nắm muối.  Phải ăn  một nắm muối thì khổ biết là bao nhiêu.  Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào tô nước rồi uống thì có lẽ dễ chịu hơn chút đỉnh. 
Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào lu nước rồi uống thì dễ chịu hơn chút nữa.  Nếu như con người có thể bỏ nắm muối đó vào hồ nước lớn rồi uống thì chắc là câu chuyện không thành vấn đề nữa rồi.
 
Nắm muối bị bắt buộc phải ăn tượng trưng cho "tội báo, nghiệp báo, hay quả báo", do những tội lỗi chúng ta đã làm từ nhiều đời trước hay đời này.  Nước trong tô, trong lu, trong hồ tượng trưng cho "phước báo" ít hay nhiều, chúng ta đã tạo được từ những việc làm phước thiện, phước đức, trong các đời trước hay đời này.  Như vậy, nếu con người phải đền trả hoàn toàn đầy đủ những tội lỗi do chính mình gây ra, đời trước hay đời này, thì có khi phải tán gia bại sản, bệnh tật ngặt nghèo, nguy hại tánh mạng.  Nhưng nhờ đã làm các việc phước thiện, nên có  "phước báo" để bù đắp, cho nên hoàn cảnh khổ đau, tai nạn có thể được giảm bớt hay hóa giải đi.  Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không.  Ví như con người có tiền tiết kiệm để dành, có thể đem trả, trừ bớt nợ hay trừ dứt nợ xưa vậy.
 
Bởi vậy, làm việc phước thiện, tạo phước đức, có phước báo, để tiêu trừ tội nghiệp là thái độ tích cực và hợp đạo lý, đối với bất cứ ai trên thế gian này, hơn là việc cầu nguyện thượng đế để xin xá tội, để chạy tội, hoặc đổ hết tội lỗi của mình cho thượng đế gánh giùm!  Thật là thảm thương thay cho thượng đế do con người đặt ra, tưởng tượng ra, để gánh vác hết tội lỗi của nhân loại trên thế gian này!  Con người vốn hay muốn quịt nợ, muốn trốn tránh trách nhiệm, không sợ nhân chỉ sợ quả, không bao giờ nhìn nhận những việc sơ sót, sai trái, tội lỗi, lỗi lầm, chính mình đã làm, chỉ biết trách cứ người khác, đổ thừa tại người này, đổ thừa tại việc kia, không bao giờ dám nhận là "tại mình", không bao giờ chịu nhận là "lỗi tại tôi mọi đàng".  Tại sao vậy?  Bởi vì con người không hiểu thấu đáo, không biết tin sâu luật nhân quả vậy. 
* * *



Tóm lại, trong kinh sách, Đức Phật có dạy:
Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng Phật vãng tây phương. 
Nghĩa là nếu như lúc nào ba nghiệp của chúng ta đều thanh tịnh, lặng yên, trong sáng, thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu không nói dối, không nói lời thị phi, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không xuyên tạc phỉ báng, không vu khống cáo gian, ý không còn tham lam, sân hận, si mê, thì chắc chắn chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc hiện đời, sẽ cùng chư Phật về cõi tây phương cực lạc sau này.  Những người không thấu hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể "đới nghiệp vãng sanh", tức là còn mang nghiệp mà vẫn có thể vãng sanh tây phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di Đà.  Đó là một sự suy nghĩ sai lầm lớn lao của người tu đạo, không đúng Chánh Pháp.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
Tất cả nghiệp chướng đều do vọng tưởng,
nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng. 
Nghĩa là khi quán sát thực tướng, nếu người nào biết được tánh chúng sanh là tánh niết bàn thì người ấy cùng cực giải thoát. 
Trong kinh sách có câu:
"Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng",
hay: 
"Năng lễ sở lễ tánh không tịch".
chính là nghĩa này vậy. 
Xét cho đến ngọn nguồn, tội nghiệp đều do vọng tưởng điên đảo mà sinh ra. Nhưng tâm vọng tưởng điên đảo ấy cũng như luồng gió giữa chốn hư không, chẳng có chỗ nào trụ, chẳng có chỗ nào dính mắc.
Khi chưa thấu hiểu chân lý, mang mang mờ mờ mịt mịt, cho nên chúng ta mới gây tội nghiệp, nhưng lại chỉ thấy tội nghiệp của người khác.  Đến khi rõ lý lẽ, tất cả tội lỗi trước đây thảy đều tiêu diệt, bởi chúng ta đã thấy tội nghiệp của chính mình.  Lúc ấy mới biết một cách rốt ráo, tất cả đều là không: không có tội lỗi gì để mà tiêu diệt, không có tội nghiệp gì để mà tạo tác, không thấy có nghiệp báo gì để mà gánh chịu, cũng không còn sanh tử luân hồi nữa vậy.

(tham khảo thêm bài: Tội Nghiệp - Cư Trần Lạc Đạo 3)


ĐÀN KIẾN VÀ CƠN BÃO


Cách mà tôi muốn đề nghị bạn là hãy nhận diện cơn giận, quan sát diễn biến cơn giận và chuyển hóa chúng bằng năng lượng của chánh niệm, năng lượng của thương yêu. Nhận diện và chuyển hóa cơn giận phụ thuộc vào khả năng và thời gian thực tập của bạn. 

Hạt từ, bi, hỷ, xả
Đất tâm con gieo vào
Cho tình thương lớn rộng
Bao la như trời cao.
           
“Xung quanh ta có rất nhiều điều lý thú, chỉ cần để tâm tới một chút thì ta sẽ học hỏi được rất nhiều”  đây là những gì ba tôi thường nói với tôi khi tôi hãy còn là một chú bé thích tắm mưa. Bạn có từng quan sát diễn biến của một cơn mưa bão không? Trước khi cơn mưa bão bắt đầu, bầu trời sẽ kéo mây đen. Không khí cũng bắt đầu đổi dần, từ ấm chuyển sang lạnh hơn và đôi khi có sấm chớp kèm theo. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những cơn mưa bão như vậy sẽ được đài khí tượng báo tương đối chính xác trước vài ngày. 

Còn một loại đài khí tượng sinh học khác cũng dự báo chính xác không kém. Đài khí tượng sinh học mà tôi nói đến là những chú kiến. Khi còn nhỏ mẹ tôi hay nói với tôi “có thể chiều nay mưa, con canh để lấy đồ phơi ở đằng sau vào” và thường là những dự đoán của mẹ tôi đều đúng mặc dù sáng đó trời khá nắng và cũng ít mây đen. Điều đó đã làm tôi ngạc nhiên rất nhiều.

Một hôm tôi mạnh dạn hỏi mẹ tôi “làm sao me có thể biết trước là trời sẽ mưa”. Mẹ tôi mỉm cười và trả lời tôi “đâu có khó gì đâu, chỉ nhìn những chú kiến đang dời tổ hàng đàn như vậy thì me biết thôi”. “À thì ra là vậy” tôi thốt lên. 

Muốn biết trời có mưa hay không thì chỉ nhìn những đàn kiến dời tổ. Kiến là một loại động vật rất kỵ nước, không biết có phải vì vậy không mà ông trời đã cho những chú kiến nhỏ bé đó khả năng có thể biết trước được thời tiết. Giả sử như những chú kiến không có khả năng này, thì quả thật là đáng thương khi có một cơn mưa ập đến và thiệt hại cho đàn kiến sẽ rất nặng nề. Điều này bạn có thể tưởng tượng được.

Nãy giờ tôi đang đề cập đến cơn bão của đất trời, còn một cơn bão khác tôi muốn nói đến đó là cơn giận của chúng ta. Cơn giận của ta cũng giống như một cơn bão, nếu chúng ta không đề phòng, không chuẩn bị trước để đối phó thì nó cũng sẽ gây nhiều thiệt hại nặng nề. Những thiệt hại mà nó gây ra là sự đổ vỡ trong các mối quan hệ của chúng ta, rạn nứt tình cảm giữa vợ hoặc chồng, không khí ngột ngạt, khó thở trong gia đình. Và nhiều thiệt hại khác nữa. Đàn kiến có khả năng dự báo được cơn bão sắp xảy ra, vậy thì chúng ta có cách nào để biết cơn giận của mình sắp nổ ra không? Có cách nào chúng ta chuyển hóa được cơn giận của mình không. Và tôi muốn chia sẻ cho bạn tin vui là chúng ta có cách.

Có một cách để trút bỏ cơn giận mà nhiều người vẫn thường hay áp dụng đó là đập gối, hay còn gọi là “xã nút van”. Giống như một cái bánh xe bị bơm hơi căng quá, có nguy cơ nổ, nên chúng ta mở nút van ra cho hơi thoát bớt. Thì cũng vậy những người này vào phòng, đóng kín cửa lại rồi “xã nút van” bằng cách ném đồ đạc trong phòng, hay đánh túi bụi vào gối. Cố nhiên tôi sẽ không khuyên bạn xử dụng cách này, vì có thể cơn giận của bạn giảm bớt ngay lúc đó, nhưng lần sau nó sẽ mạnh lên gấp bội.

Vì sao? Trong trường hợp này bạn hãy tưởng tượng cơn giận như là một cái cây đang đòi nước, hành động ném đồ hay đập gối cũng giống như là nước mình tưới vào cái cây giận. Cây đã được hút nước nên không có nhu cầu thêm nữa. Bạn cảm thấy cơn giận mình dịu bớt. Nhưng sau đợt hút nước này nó sẽ lớn lên hơn. Và cố nhiên lần sau nó cũng sẽ đòi một lượng nước nhiều hơn. Điều này cũng có nghĩa là bạn đang nuôi cơn giận của bạn.


Cách mà tôi muốn đề nghị bạn là hãy nhận diện cơn giận, quan sát diễn biến cơn giận và chuyển hóa chúng bằng năng lượng của chánh niệm, năng lượng của thương yêu. Nhận diện và chuyển hóa cơn giận phụ thuộc vào khả năng và thời gian thực tập của bạn.

Tất cả mọi cảm thọ
Như thương, ghét, buồn, vui …
Điều vô thường chuyển biến
Và từ tâm biểu hiện.


Bạn có thể dựa vào năm giai đoạn này mà có cách đối trị với cơn giận cho thích hợp với hoàn cảnh riêng của mình. Nếu bạn đã bắt đầu thực tập rồi thì hiển nhiên bạn đang ở ngay giai đoạn thứ hai. Vậy khi bạn lâm vào tình trạng như vậy bạn phải làm gì? Muốn tránh sự đổ vỡ các mối liên hệ trong gia đình cũng như ngoài xã hội thì điều trước tiên, trong khi giận không nên làm gì hết, mà áp dụng ngay phương pháp thở hoặc đi thiền hành.

Giai đoạn thứ tư là giai đoạn của những chú kiến tránh bảo, nếu thực tập tới giai đoạn này thì thực tuyệt. Bạn sẽ trở thành một con người tươi mát và đem lại rất nhiều niềm vui cho những người xung quanh.

Giai đoạn thứ năm tương đối xuất hiện cùng một lúc với giai đoạn thứ tư. Bạn thấy được người làm bạn giận cũng có những khó khăn, khổ đau. Và trong tận đáy lòng họ cũng không muốn làm như thế. Bạn thấy được những nguyên nhân làm cho bạn giận của người kia, là do người đó sống trong một môi trường thiếu may mắn, mà những hạt giống của tập khí thường xuyên được tưới tẩm. Trong lòng bạn xuất hiện một sự cảm thông sâu sắc. Từ việc giận bạn bắt đầu chuyển sang thương yêu và tha thứ. Tấm lòng bạn cũng dần rộng mở. Bạn mong muốn cho người làm bạn đau khổ có một cơ hội để họ chuyển hóa. Bạn thấy họ cũng thật đáng thương, những điều mà trước đây bạn chưa hề nghĩ tới.

Những chú kiến được bảo vệ an toàn nhờ chúng biết trước được cơn bão sẽ xảy ra. Chúng ta cũng sẽ được bảo vệ an toàn khỏi cơn giận nếu như chúng ta có sự hành trì, có sự thương yêu, tha thứ và bao dung. Rồi bằng sự thực tập của chính mình, bằng sự chuyển hóa của bản thân, chúng ta cũng sẽ chuyển hóa được những người làm ta giận và những người giận ta. Thương yêu và tha thứ cũng là một cách thực tập rất mầu nhiệm của Đạo Bụt.

Ai cũng có lỗi lầm
Vấp ngã rồi đứng lên
Con thực tập tha thứ
Cho con và cho người.



NHÂN NÀO QUẢ NẤY
CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT
ĐƯỜNG LỐI TU THEO PHẬT  
TÌM VỀ NGUỒN AN LẠC GIẢI THOÁT 
SỰ VÔ MINH TRONG PHẬT GIÁO
LUÂN HỒI SANH TỬ TRONG ĐẠO PHẬT
37 PHẨM TRỢ ĐẠO TRONG CHÁNH PHÁP