TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Monday 1 September 2014

XUẤT GIA HAY TẠI GIA

PHÁT TÂM XIN  XUẤT GIA PHẢI LÀM SAO
GIÁC NGỘ KHI TUỔI CAO 
HAY 
THẤT BẠI TRONG TÌNH DUYÊN VÀ SỰ NGHIỆP.

From: Le Cong Tam (Suisse)
Date: 2014-08-30 14:57 GMT-04:00
Subject: Xin được hỏi
Kính thưa Thầy, 
Con là 1 Phât tử đã quy y Tam Bảo + thọ Giới Luật cư sĩ hồi còn nhỏ ở chùa VN, nhờ má con đã thường xuyên hướng dẫn đi chùa sám hối, nghe Pháp, v.v... Nay ba má con đã qua đời, mọi việc đã ổn định. 
Con muốn xin được xut gia gi thân nơi ca chùa để chun b hành trang tư lương cho nhng kiếp sau ca con cho đến ngày Gii Thoát khi sanh t luân hi. 
Con muốn được xuất gia tu ở chùa hải ngoại ở Canada. 
Con hiện đang ở Châu Âu. 
Con phải làm thủ tục như thế nào? Kính xin Thầy từ bi hướng dẫn cho con. 
Xin chân thành cảm tạ tri ân.
Con,  
Phât tử Thiên Hương.
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Chủ Nhật 31.8.2014
Kính thưa quí Đạo Hữu,
Việc phát tâm nguyện xuất gia là việc làm cao cả đáng tán thán, khuyến khích.

Tuy nhiên, bên cạnh đó có nhiều vấn đề nên được quan tâm như sau:
1. Mọi việc gia duyên đã ổn định là yếu tố đầu tiên thuận lợi
2. Nên suy nghĩ chín chắn động lực nào xin xuất gia: ngộ đạo với sự thông hiểu giáo lý có chánh kiến và chánh tín, hay muốn tìm chỗ yên thân trốn nợ đời, hay muốn được cung kính lợi dưỡng.
3. Nên tìm hiểu kỹ lưỡng nề nếp sinh hoạt trong các chùa. Đừng lý tưởng chùa chiền là nơi thoát tục, hoàn toàn thanh tịnh đạo đức như ý. Đừng tưởng những vị đang tu trong chùa, dù đã tu 100 năm, lên hàng thượng thủ, pháp chủ, hội chủ, chủ tịch, tăng giáo trưởng, đều là hiền thánh nhân cả đâu.

Riêng trường hợp của quí Đạo Hữu, có những vấn đề sau:
1. Quí ĐH đang ở Âu Châu, việc xin xuất gia ở Canada liên quan đến thủ tục di trú, phải tham khảo nơi chính quyền (sở di trú hay tòa đại sứ, lãnh sự Canada sở tại)
2. Quí ĐH lớn tuổi, vấn đề sức khoẻ có thích hợp với sinh hoạt nhà chùa chăng? Không nên nghĩ tưởng có sự ưu đãi riêng biệt cho bất cứ ai, trong khi tất cả đều phải chấp tác (lao động chân tay) để duy trì sự trang nghiêm của cảnh chùa.
- Và vấn đề y tế khi cần thiết phải tính như thế nào?
Nhiều người lớn tuổi vào chùa chấp tác, đến khi bệnh hoạn xảy ra, nhà chùa gọi thân nhân hay con cháu đem về nhà chăm sóc, hoặc phải đem vào viện dưỡng lão, chứ trong chùa không có ai chăm lo cho người bệnh đâu. Đừng than vãn chuyện này mà phải nhìn sự thật là như vậy đó.
3. Quí ĐH có nghĩ rằng: Nếu quí ĐH ngộ đạo thì quí ĐH tu trong mọi hoàn cảnh đều có thể đạt kết quả chăng? Chùa chiền không hẳn là nơi nương thân hay gửi thân nếu không bị lôi cuốn vào các nghi lễ rườm rà, mê tín, gạt gẫm, giành giựt tụng đám kiếm tiền cho chùa, làm tiền thân nhân các hũ tro cốt ký tự, văn nghệ cơm chay gây quỹ liên miên, quyên góp bạc triệu này đến triệu khác vẫn chưa thỏa mãn, xây chùa xây tháp rồi đến xây phương trượng như cung điện, thêm nữa còn có sự kỳ thị khinh dễ coi thường người già, hưởng đời chán chê, lớn tuổi mới chịu đi tu, biết có làm nên tích sự gì cho chùa chăng, như mấy vị tu thâm niên, dù bị quăng vào chùa từ lúc là đứa nhỏ 7 hay 10 tuổi, chứ có tâm nguyện xuất gia gì hay ho đâu ?
Do đó, quí ĐH nên xin xuất gia ở một chùa địa phương, nhập sinh hoạt một thời gian để thử thách. 
Nếu thích hợp thì tốt quá, quí ĐH có phước nhiều, có thể tiếp tục cuộc đời tu hành trong chốn thiền môn. Nếu không thích hợp thì quí ĐH nên biết: Thứ nhứt là tu tại gia. Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Đừng thần tượng bất cứ nhà sư nào, để phải xin xuất gia nơi xa lạ, chắc chắn quí ĐH sẽ vỡ mộng, thất vọng não nề đó.
Hiện nay, hầu hết các chùa, cũng như các nơi gọi là tu viện, học viện đều do những vị phàm phu tục tử điều khiển, lợi dụng tín tâm của bá tánh - tại gia và xuất gia. Người ở trong chùa cũng đang tập tu, chưa kể những vị trời ơi đất hỡi đầy dẫy trong chốn thiền môn.

Tóm lại, nghe nhiều quá có thể làm cho quí ĐH thoái tâm bồ đề. Quí ĐH cũng như những người phát tâm xuất gia, phải nên nhìn thẳng vào sự thật trước khi bị vấp ngã, hối hận, còn tàn tệ hơn nhiều. 
Cốt lõi của việc tu giải thoát là phải giác ngộ đạo lý, dù tại gia hay xuất gia, chứ không phải chỉ cạo cái đầu trọc lóc láng o, đắp y cà sa là thành người tu đâu. Kép cải lương cũng có hình tướng tu hành kiểu như vậy rất dễ dàng. Tu hú thì nhiều lắm trên đời này và ngay trong chốn thiền môn. Làm sao phân biệt, làm sao nhận diện người tu thật hay không tu thật - chưa nói đến tu giả hay giả tu?
Con người cần tỉnh thức, chớ mê ngủ, đừng sống trong ảo tưởng từ ngoài đời cho đến trong đạo.
Kính chúc quí ĐH luôn tinh tấn và an lạc trong chánh pháp.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính thư,
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

From: vinh nga
To: VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA cutranlacdao@yahoo.com

On Friday, August 29, 2014 5:15:45 AM, vinh nga wrote:
Bạch Thầy
Con có người chị, chồng ly dị, có 2 con gái, 10 và 5 tuổi.
Bây giờ, con gái 10 tuổi và chị vào Chùa xin xuất gia. Con gái nhỏ 5 tuổi, gởi lại 
người chị chăm sóc.
Xuất gia, trong độ tuổi 37.
Con muốn biết xuất gia, là cắt ái, ly gia. Nhưng cắt tình MẪU TỬ đi tu.
Chị con xuất gia như vậy đúng hay sai.
Ngôi chùa nhận chị con xuất gia đúng hay sai.
Theo con nghĩ, tình mẫu tử thiêng liêng nhất trong đời, nhưng bỏ con đi xuất gia
để giải thoát. Người mẹ như vậy có ích kỷ không?
Con rất mong quí Thầy giải đáp cho con có cái nhìn đúng về hành vi đạo đức của chị con.
A di da phật
Con
Vinh Nga
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll 
Thứ Sáu 29/08/2014
Kính thưa quí Đạo Hữu
Việc phát tâm nguyện xuất gia là việc làm cao cả đáng tán thán, khuyến khích.
Tuy nhiên, một phụ nữ ly dị đang độ tuổi 37, xin xuất gia với con gái nhỏ 10 tuổi, bỏ lại con gái nhỏ 5 tuổi, là điều cần nên xét lại.
Đây là hành động nông nổi của người phụ nữ trong hoàn cảnh buồn tình duyên.
Không đáng khuyến khích và không nên làm như vậy.
Tại sao?
1. Tình mẫu tử hay phụ tử là tình cảm thiêng liêng. Chưa trọn bổn phận phụ mẫu mà xin xuất gia là điều hết sức đáng trách. Người như vậy bản thân chẳng những sẽ không tu hành đến đâu, mà chắc chắn sẽ mang nhiều phiền lụy, tai tiếng đến cho nhà chùa. Cứ nhìn sinh hoạt các chùa hiện nay trong và ngoài nước, hình ảnh sa đọa của các loại nhà sư này vô cùng tai hại: mê tín, dị đoan, lường gạt, hung tợn, tranh giành tiền bạc, tín đồ và chức vụ. Họ thích hưởng thụ sung sướng, tạo cảnh chùa như hoàng cung rồng chầu, kỳ lân giữ cổng, đèn đuốc sáng choang rực rỡ, đốt pháo bông ăn mừng khánh tuế, kỷ niệm chu niên.
Họ thích trổ tài làm ca sĩ, nhạc sĩ, sáo sĩ, vô liêm sĩ. Họ tụ tập nói là an cư tại phật học viện để tập làm tài tử đóng tuồng, đóng kịch, các ni sư ni cô đóng phim nhền nhện (gái điếm, gái ăn chơi). Hàng lãnh đạo cao cấp ngồi chứng minh, cười hô hố. Chẳng ra cái thể thống gì hết.
2. Mục đích tu theo Phật để giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau là chánh. Con người có thể tu trong mọi hoàn cảnh, tại gia hay xuất gia. Đừng tưởng cứ phải tu ở trong chùa mới gọi là tu. Đa phần là tu hú đó. Cho nên càng gặp hoàn cảnh khó khăn trắc trở, con người càng tu tinh tiến hơn, với điều kiện phải ngộ đạo. Nghĩa là con người phải thấu hiểu đạo lý nhà Phật trước khi quyết định xuất gia. Xuất gia với chánh kiến và chánh tín, mới lợi ích cho bản thân và bá tánh. Nhà chùa không phải là nơi để chạy trốn nợ đời, núp bóng từ bi, an hưởng nhàn hạ. Nhà chùa là nơi an ủi những tâm hồn khổ đau, nhiệt não ở trong thế gian, chứ không phải là chỗ ẩn náu của kẻ thất chí, thất nghiệp hay thất tình ngoài đời như vậy.
3. Những đứa con nít sơ sinh hay 7 tuổi hay trên dưới 10 tuổi bị quăng vô chùa vì cha mẹ chối bỏ xấu hổ, vì hoàn cảnh chiến loạn hay nghèo đói. Lớn lên nếu không thể chạy ra đời kiếm sống, họ thường trở thành những nhà sư phá hoại thiền môn nghiêm tịnh, tâm sân hận trả thù đời, do bực tức thân phận, ganh tị với thế nhân. Họ trở thành những nhà sư hổ mang, nam hoặc nữ, bề ngoài mang bộ mặt hiền thiện, đạo đức, chân tu, có khi mang chức lãnh đạo cao cấp nhất hay các cấp, nhưng trong tâm ẩn chứa một bồ dao găm. Miệng họ niệm nam mô a di đà với một bồ a ka, mã tấu. Nhà sư nhận xuất gia cho người phụ nữ ly dị 37 tuổi với con gái lớn 10 tuổi, bỏ lại con gái nhỏ 5 tuổi nhất định là nhà sư loại này, dù nam hay nữ. Có những nhà sư tu ở trong chùa 80, 90, 100 năm, được người đời ca tụng thạch trụ thiền lâm, vẫn có thể là nhà sư tâm lưu manh đệ nhất hạng, thuộc hàng thượng thủ. Người bên ngoài khó có thể nhận ra. Phải là người thân cận mấy mươi năm mới nhận ra được điều này, nhưng khó nói ra.
4. Tóm lại, mọi người trên đời nên phát tâm tìm hiểu, tìm học và thực hành những lời dạy của Đức Phật để ứng dụng khi gặp sóng gió, gặp trắc trở, gặp phiền não, có thể có đủ nghị lực, có đủ sức mạnh tâm linh để chống chọi và vượt qua. Đừng để đến khi gặp chuyện đau buồn mới nghĩ tới chùa chiền, nghĩ tới việc van xin cầu khẩn. Nhà chùa hay các tôn tượng Phật, Bồ tát chỉ để con người hành lễ, chiêm bái và nương theo công hạnh của chư Phật, chư Bồ tát mà sống trên đời cho được an lạc hạnh phúc, chứ có linh thiêng gì đâu. Nhà sư cũng như mọi người, tại gia hay xuất gia, đang tự tu và giúp đỡ người tu theo Phật, chứ có phải phù phép, thần bí gì đâu. Nhà sư bệnh vẫn phải uống thuốc, đi bệnh viện. Nhà sư phạm pháp cũng đi tù như ai, làm sao cầu an cho bá tánh được. Nhà sư sa đọa cũng chẳng siêu nổi, làm sao cầu siêu cho bá tánh, cho bảy đời phụ mẫu tổ tiên như tà pháp là các lễ trai đàn bạt mạng, bạt độ, chẩn tế, pháp hội địa tạng, pháp hội tào lao đâu.
Vài hàng ngắn gọn, không giải thích tường tận mọi phạm vi rộng lớn của vấn đề.

Kính mong quí ĐH tham khảo thêm:
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính thư,
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
CHỮ TU TRONG ĐẠO PHẬT 

TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
Trong đời sống này, chúng ta thường nghe, nói đến chữ "TU". Chẳng hạn như là: tu bổ tu sửa, tu chính tu chỉnh, tu tỉnh tu thân, tu nhân tích đức, tu tâm dưỡng tánh. Những từ ngữ đó, có nghĩa chung là: sửa chữa sửa đổi, rèn luyện trau giồi, cho được mới hơn, cho tốt đẹp hơn, cho đúng đắn hơn, cho chính xác hơn, cả hai phương diện, vật chất tinh thần. 
Còn như nói về, phương diện tín ngưỡng, từ ngữ đi tu, thường có nghĩa là: rời bỏ đời sống, tại nơi thế gian, sống đời tu sĩ, trong các tự viện, hay là tu viện, thanh tịnh trang nghiêm, hoặc đến những nơi, núi rừng vắng vẻ. 
Phạm vi bài này, chỉ đề cập đến, công phu tu tập, có thể áp dụng, giáo lý đạo Phật, cho người tại gia, để tạo an lạc, hạnh phúc hiện tiền, ngay trên đời này.  Ở trong đạo Phật, chúng ta thường bàn, đến các vấn đề: "TU PHƯỚC HAY TU TUỆ". Tu phước là gì?  Tu tuệ là gì?  Giá trị tu phước, giá trị tu tuệ, khác như thế nào?  Làm sao có thể, áp dụng vào trong, đời sống hằng ngày, của người tại gia, phát tâm tu tập, tu tâm dưỡng tánh? 
* * * 
Trước hết là việc, chúng ta cần biết, đạo Phật xưa nay, có những nghi lễ, hình thức cúng kiến, của một tôn giáo, dành cho đại chúng, đa số tín đồ, những người chưa thấu, giáo lý thâm sâu, của Đức Thế Tôn. Chẳng hạn như là: cúng kiến lễ lạy, chuông trống khánh mõ, cầu an cầu siêu, cầu phước lộc thọ, cầu nguyện hòa bình, cầu cho chúng sanh, vạn dân bá tánh, an lạc hạnh phúc.  Những hình thức này, rất là cần thiết, có thể giúp cho, những người sơ cơ, tin theo đạo Phật, bởi do ông bà, cha mẹ tin Phật, thỉnh thoảng đến chùa, vào các dịp lễ, lớn nhỏ hằng năm, hái lộc đầu xuân, dịp tết nguyên đán, hoặc vào các dịp, quan hôn tang tế, nhưng không hiểu gì, giáo lý đạo Phật. 
Hoặc gặp những lúc, phong ba bão tố, dồn dập trong đời, tâm thần điên đảo, đời sống chao động, con người cần có, cảnh chùa thanh tịnh, để được tĩnh tâm, cần có buổi lễ, cầu an cầu phước, để tạm an tâm, cần có những người, thiện hữu tri thức, hết lòng an ủi, giảng giải nghĩa lý, đem lại chánh kiến, giúp đỡ người đó, thoát khỏi những cảnh, khổ đau như vậy.
 
Từ các dịp đó, con người đến chùa, sinh hoạt thường xuyên, và hiểu được rằng: bởi vì kém phước, thiếu phước ít phước, hết phước không phước, thường gọi "vô phước", cho nên cuộc đời, chịu nhiều thăng trầm, cuộc sống gặp nhiều, khó khăn bất trắc, khốn khổ đau thương, hoạn nạn điêu đứng, người thương không có, kẻ ghét thì đông.
Do đó con người, phát tâm "tu phước", tạo thêm phước báu, để cho cuộc đời, vơi bớt phiền não, giảm thiểu khổ đau. Phước báu là do, chính chúng ta tạo, chứ không phải do, thượng đế ban cho, hay do cầu nguyện. Người nào tích phước, từ trước đến nay, không cần cầu nguyện, cuộc đời cũng an, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, đở bớt phiền muộn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa dễ. 
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Thí dụ như sau: Nếu người phải bị, nuốt một nắm muối, thì sẽ đau khổ, biết là dường nào.  Nhưng nếu đem bỏ, nắm muối đó vào, một tô nước nhỏ, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, hơn một chút xíu. Nếu bỏ nắm muối, vào một lu nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, nhiều hơn chút nữa.  Nếu bỏ nắm muối, vào hồ nước lớn, rồi mới uống vào, thì chuyện sẽ không, thành vấn đề nữa. Nắm muối tượng trưng, cho các nghiệp nhân, bất thiện chẳng lành, con người đã tạo, từ trước đến nay, bây giờ phải lãnh, nghiệp quả nghiệp báo, nói chung đó là: quả báo khổ đau, không sao tránh khỏi.  Chỉ có phước báo, ít hay là nhiều, tượng trưng tô nước, lu nước hồ nước, có thể giúp đỡ, con người vượt qua, khổ đau mà thôi.  

Đó mới thực là: chí công vô tư. 

Mình làm mình hưởng. Mình làm mình chịu Cầu nguyện van xin, dù tin hay không, thực sự chẳng giúp, chẳng ích gì đâu.  Tại sao như vậy?  Bởi vì thực ra, chính vị giáo chủ, giáo phẩm chức sắc, giáo quyền cao cấp, cũng phải trả nghiệp, đã tạo trước kia, nhiều đời nhiều kiếp, ngay trong kiếp này, cũng bị nguyền rủa, vu khống cáo gian, xử án khổ nạn, ám sát giết hại, một cách thê thảm, không ai thay được!  Trong khi xảy ra, tai nạn xe hơi, xe lửa tàu thủy, hay là phi cơ, có người nằm mơ, cầu nguyện đức Mẹ, hằng đi cứu giúp, có người cầu nguyện, đức Quán Thế Âm, cứu khổ cứu nạn.  Nếu như hai người, cùng thoát tai nạn, thực sự vị nào, đã cứu giúp họ?  Còn nếu hai người, cùng bị thảm tử, thì cả hai vị, đều bỏ rơi họ?  Có phải vậy chăng? 
Thực ra không phải!  Không có vị nào, cứu họ giúp họ, theo lời cầu nguyện. Chỉ có phước báo, của chính cá nhân, đã cứu chính họ!  Người có phước báo, nhiều hơn một chút, thì được thoát nạn, một cách an ổn.  Người có phước báo, ít hơn một chút, thì được thoát nạn, một chút xây xát.  Những người vô phước, không còn phước báo, thường gọi tới số, thì đã mạng vong.
Chí công vô tư: là luật nhân quả. 

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Chỉ có phước báo, mới có thể làm, giảm thiểu nghiệp báo. Nếu như chúng ta, phát tâm tu phước, tạo thêm phước báu, chúng ta thường làm, tất cả việc thiện, cứu người giúp đời, thường được gọi là: những việc "phước thiện". Chẳng hạn như là: bố thí cúng dường, hùn phước cất chùa, tạo tượng đúc chuông, ấn tống kinh sách, đi chùa lễ Phật, vào chùa công quả, tham gia hoạt động, từ thiện xã hội, cứu trợ nạn nhân, thiên tai bão lụt, giúp đỡ người nghèo, bần cùng khốn khổ. 

Tuy nhiên cũng có, những người tu phước, thường hay mong cầu, phước báu trở lại, với bản thân mình, với gia đình mình, qua các dạng như: thới hên may mắn, tai qua nạn khỏi, giàu sang hạnh phúc, ăn nên làm ra, cửa nhà êm ấm, con cái thành tài, buôn may bán đắt.  Như vậy nghĩa là: mặc dù tu phước, người rất hiền lương, ăn hiền ở lành, việc ác không làm, chỉ làm việc thiện, nhưng mà tâm niệm, của người tu phước, chưa được quảng đại, còn hay vị kỷ, hơn là vị tha, chưa được thanh tịnh. Do đó cho nên, phước báu có được, rất là hạn chế, theo như tâm lượng, hạn hẹp của mình.  Khi không như ý, những người tu phước, thường hay nổi giận, bực bội bất an, tâm trạng hoang mang, làm cho nhiều người, mất dần tín tâm, bỏ theo ngoại đạo. 

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí.  Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.  Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng.  Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng" . 
Nghĩa là: nếu như chúng ta, không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được.
 
Nếu người tu phước, làm việc phước thiện, mà không vụ lợi, không tâm phân biệt, kỳ thị thân sơ, xuất xứ sang hèn, nam nữ sắc tộc, không mong cầu lộc, hay được báo đáp, không hề trông chờ, đền ơn đáp nghĩa, không hề thấy mình, là người làm phước, không thấy người khác, thọ nhận ơn phước, nếu làm như vậy, tạo được phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Tại sao như vậy?  Bởi vì tâm lượng, của người tu phước, ngay lúc bấy giờ, trở nên quảng đại, vô cùng vô tận, cho nên phước báu, trở nên to lớn, vô lượng vô biên, tương ứng rõ ràng. Trong lúc thực hiện, hành động tạo phước, lời nói tạo phước, ý nghĩ tạo phước, không hề nghĩ rằng: mình đang làm phước. Giúp đỡ người khác, chỉ vì tình thương, từ bi bác ái, lòng tốt tự nhiên, tâm bất vụ lợi, vì người quên mình, đó chính thực là: hành động tạo phước, cao thượng hạng nhứt, đem lại "phước báu", vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 

Chúng ta nên biết: chúng ta có phước, nếu như chúng ta, đầy đủ sức khỏe, lục căn hoàn bị, tay chân lành lặn, đi đứng tự nhiên, mắt mũi tinh tường, trí óc minh mẫn, sống trong hạnh phúc, gia đạo bình an, trên thuận dưới hòa, thuận vợ thuận chồng, con cháu ngoan ngoãn, hiền lành dễ dạy, cuộc sống bình yên, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, tai qua nạn khỏi, mọi việc suôn sẻ, mọi sự hanh thông, gặp được thầy lành, gặp được bạn tốt. Phước báu hơn nữa, nếu như chúng ta, gặp được chánh pháp, ngộ được chánh đạo, giác ngộ giải thoát, không còn trầm luân, sanh tử luân hồi.
 
Người trí thực hành, hạnh nguyện bố thí, chẳng cầu báo ân, chẳng cầu lợi mình, chẳng vì giúp đỡ, cho kẻ bỏn sẻn, chẳng vì quả báo, sanh cõi nhơn thiên, giàu sang sung sướng, hưởng thụ dục lạc, chẳng vì danh tiếng, đồn đãi khắp nơi, chẳng vì có của, dư dùng không xài, chẳng vì bắt chước, làm theo người khác.

Người trí thực hành, hạnh nguyện bố thí, chỉ vì từ tâm, giúp người cần đến, khiến người an vui, qua cơn khốn khó, bớt cơn phiền não, khiến cho người khác, sanh tâm bố thí, nhứt tâm hồi hướng, công đức phước đức, cho khắp muôn loài, pháp giới chúng sanh. Làm được như vậy, trí tuệ khai mở, tâm niệm hòa bình, chúng sanh an lạc, mọi người hạnh phúc.
 
Người thích bố thí, chẳng thích tu tuệ, sanh ra giàu có, nhưng tâm trí kém. Người thích tu tuệ, chẳng thích bố thí, sanh ra thông thái, nhưng nghèo xác xơ. Tuy nhiên rõ ràng, trong khi tu phước, nếu chúng ta làm, với tâm chính trực, bất tùy phân biệt, kết quả đồng thời, cũng có nghĩa là: chúng ta tu tuệ. Chẳng hạn như là: chúng ta thực hành, hạnh nguyện bố thí, với tâm đại từ, tâm bất vụ lợi, chúng ta được phước, đồng thời kết quả, tâm tham bỏn sẻn, dần dần giảm bớt, thiểu dục tri túc, biết đủ bớt tham, không còn phạm giới, không còn tạo nghiệp, tâm trí ổn định, dần dần thanh tịnh, trí tuệ phát sanh. 

Như vậy nghĩa là: thực tâm tu tập, tu phước và tu tuệ, đồng thời kết quả. Nếu như chúng ta, tu tập tinh tấn, sẽ nhận thấy rằng: trong phước có tuệ, trong tuệ có phước. Phước báu giúp ta, bớt gặp chướng ngại, trên đường tu tập.  Trí tuệ giúp ta, tu tiến nhanh thêm, chóng đến bến bờ, giác ngộ giải thoát, lai đáo bỉ ngạn. Tu tập nghĩa là: áp dụng giáo lý, ngay trong cuộc sống, luôn luôn nhớ nghĩ, sửa đổi tâm tánh, của chính bản thân, ngày một an hơn, ngày một vui hơn, cho đến một ngày, giác ngộ giải thoát.
TU TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY
TK THÍCH CHÂN TUỆ
-        Có người tuyên truyền rằng các sư ngoại quốc, đọc thần chú rất linh thiêng, có thể giúp mình rửa sạch nghiệp, có thể giúp trị bệnh ung thư, dù ở bất cứ thời kỳ nào, nên rước thỉnh về nhà để bát cúng dường. Lại có người quảng cáo là có thể truyền nhân điện chữa lành bệnh ung thư mà bác sĩ từ chối, nhờ hào quang của Phật. Các chuyện này có thật không, có đúng giáo lý đạo Phật không, hay chỉ là mê tín dị đoan, lường gạt?
       Đức Phật có dạy:
Dù cho lên non
xuống biển vào hang
nghiệp báo đã mang
không ai thoát được.
Con người thường thích chuyện linh thiêng huyền bí, nhất là những chuyện giúp mình chạy tội, tránh quả báo xấu của nghiệp nhân xấu đã gây nên, đã tạo ra trong đời. Nếu các chuyện này có thật, các sư ngoại quốc đó có thần lực ghê gớm, đâu có phải sống kiếp lưu vong, lang thang kiếm sống kiểu phi Phật pháp như thế đó!

Phật pháp là phương thuốc mầu nhiệm chữa trị tâm bệnh, chứ không chữa trị thân bệnh. Khi có thân bệnh, con người cần đến thuốc men, tây y hoặc đông y, cần đến bệnh viện, dưỡng đường để được bác sĩ, y tá, chuyên viên y tế chăm sóc. Khi có tâm bệnh, phiền não khổ đau, các bác sĩ đông hay tây y cũng phải tìm đến Phật pháp để chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc hạnh phúc. Khi tâm được bình yên, cuộc sống thoải mái, sức khỏe có thể tăng thêm, các bệnh có thể sớm chữa khỏi.

Khi hết trần duyên, con người đã trải qua sanh, già, bệnh, thì ai cũng phải chết. Không thấu hiểu luật vô thường, mong kéo dài mạng sống khi không thể, con người dễ bị những tà sư, ma giáo lường gạt, tiền mất tật mang. Tóm lại, trong cuộc sống, chúng ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh: sống hạnh phúc, chết bình an. Thế thôi! []

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
- Thường ngày, khi nói năng, nên cẩn trọng lời nói và cách nói, 
tránh làm người khác tổn thương danh dự, va chạm tự ái cá nhân, 
không nên làm người nghe khó chịu, dễ sanh giận hờn, dễ gây oán thù.  
Như vậy gọi là tu đó. []
  
- Bình thường, người đời nói năng với cấp trên, bề trên, khá cẩn thận và lễ độ. 
Nhưng với người dưới quyền, người đời thường hay cao giọng, lên giọng kẻ cả, 
không giữ gìn lời nói, không để ý cảm giác của người nghe, 
 cho nên ít người ưa thích cấp trên, thường tìm cách xa lánh, chỉ có kẻ dua nịnh đến gần. Nếu mình có trách nhiệm, trong đời hay trong đạo, 
mà giữ được sự hòa nhã, tương kính, trong lời nói và cách nói, 
thì tất được người chung quanh cảm mến, thân cận, ưa thích gần gũi. 
Như vậy gọi là tu đó. []
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Thương ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con trâu, mà người tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều phải khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành công thì Tánh Giác hiển lộ. Ðiều quan trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu, chớ để con trâu dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người sẽ đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu", chính là nghĩa đó vậy. Chăn trâu nghĩa là: áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình, bất lương bất thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh. Chăn trâu nghĩa là: không theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của tâm tham lam, sân hận si mê.

Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật
Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là Chơn Tâm. 
Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, 
trở thành vọng tâm. 
Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. 
Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh.  
Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, 
không còn gì khác!

Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây, ngay trên thế gian này! Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta. Cũng ví như biển động hay biển lặng, tuy khác nhau, nhưng đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.

Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

SỐNG AN LẠC TRONG ĐỜI

Trong cuộc sống của bạn, không ai có nghĩa vụ phải cư xử tốt với bạn trừ cha mẹ.
Còn với những người tốt với bạn, bạn nên trân trọng và biết ơn điều đó. Nhưng bạn cũng cần phải có chút đề phòng bởi mỗi người khi làm bất cứ việc gì đều có mục đích riêng của họ . Hãy nhớ, họ tốt với bạn không đồng nghĩa với việc họ phải quý mến bạn.
***
Không có ai là không thể thay thế, không có vật gì thuộc hoàn toàn sở hữu của bạn.
Vì thế, nếu sau này người bạn yêu thương không còn ở bên,
hay họ không còn là nơi bạn có thể đặt niềm tin, bạn cũng đừng bi lụy.
Sinh mệnh con người thực sự ngắn ngủi, bạn đừng để mỗi ngày trôi đi vô ích.
Người ta tham vọng sống lâu nhưng bạn chỉ cần sống hạnh phúc mỗi ngày.
Hãy trân trọng và yêu lấy cuộc sống hiện tại của bạn.
 ***
Trên đời này không có gì là nhất cả, tình yêu chỉ là cảm giác bất chợt đi qua cuộc đời bạn,
nhưng nó sẽ theo thời gian và lòng người mà thay đổi. Nếu như người đó rời xa bạn, bạn hãy học cách chờ đợi. Hãy để thời gian rửa sạch vết thương, để tâm hồn bạn lắng lại rồi nỗi đau của bạn cũng sẽ dần biến mất. Bạn đừng mơ ước một tình yêu hoàn hảo, cũng đừng thổi phồng nỗi đau khi nó không còn.
***
Bạn có thể bắt mình phải giữ chữ tín, nhưng không thể yêu cầu người khác làm thế với mình. Bạn có thể yêu cầu bản thân phải đối đãi tốt với người, nhưng bạn không thể kì vọng người ta sẽ làm ngược lại. Khi bạn tốt với họ, họ không có nghĩa vụ phải tốt lại với bạn.
Hãy nhớ điều này nếu không bạn sẽ luôn gặp ưu phiền trong cuộc sống.
***
Chỉ những ai có duyên phận mới trở thành người thân của nhau, cho dù trong cuộc sống bận rộn bạn ít khi gặp mọi người, nhưng bạn hãy trân trọng từng khoảnh khắc khi còn bên họ, hãy dành cho họ thời gian để yêu thương bạn hơn.
                   
TẬP SAN PHTQ SỐ 26
VP.PHTQ.CANADA trân trọng thông báo:
 Tập san PHTQ.26 (VU LAN) đã phát hành hoàn toàn miễn phí vào dịp
Đại Lễ Vu Lan (10/8/2014).
VP.PHTQ.CANADA 
bắt đầu nhận bài vở ý kiến tịnh tài đóng góp cho Tập san PHTQ.27
 (Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015)
Quí vị muốn thỉnh tập san PHTQ.26 & 27 hay phát tâm hùn phước ấn tống kinh sách tu học
 hoan hỷ gửi thư & tịnh tài về địa chỉ:
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
 108-123 Railroad St., Brampton, ON, L6X-1G9, CANADA.
Tel: 647-828-1016
 Email: cutranlacdao@yahoo.com
alt